Sai khớp xảy ra phần lớn ở tuổi lao động, thường gặp ở khớp động. Sai khớp là tình trạng mất liên quan giải phẫu bình thường giữa mặt các khớp. Nguyên nhân dẫn đến sai khớp là do tác động trực tiếp sau chấn thương, đôi khi do bẩm sinh hoặc bệnh lý.
Các dấu hiệu nhận biết sai khớp:
- Đau do tổn thương rách bao khớp.
- Giảm hoặc mất hoàn toàn cơ năng vận động khớp.
- Hõm khớp bị rỗng, đây là dấu hiệu đặc biệt của sai khớp. Nhưng không phải khớp nào cũng có triệu chứng này mà chỉ gặp ở khớp vai, khớp hàm và một phần khớp khuỷu. Nếu bệnh nhân đến điều trị muộn thì khó có thể nhận thấy do chỗ đau bị sưng phù nhiều.
Cố định bàn chân khi bị sai khớp.
- Biến dạng toàn chi: nếu sai khớp vai thì tư thế cánh tay luôn biến dạng và không thể khép sát vào thân được. Nếu sai khớp háng, tư thế chi trở nên ngắn, gối xoay vào trong, bàn chân bên có khớp sai gác sang cổ chân bên lành.
- Dấu hiệu gồ bất thường do chỏm xương trật ra khỏi hõm khớp.
- Cử động đàn hồi còn gọi là dấu hiệu lò xo, chỉ có trong sai khớp do đầu xương trật ra chỗ khác và bị bó chặt trong khối cơ gân và dây chằng. Dù cố ý kéo hay đẩy để đưa khớp về vị trí bình thường nhưng khớp vẫn bật trở lại tư thế sai
- Bên cạnh các dấu hiệu điển hình trên, sai khớp còn có những dấu hiệu biến dạng đặc biệt sau: Dấu hiệu gù vai (vai vuông góc ) thường thấy ở sai khớp vai; dấu hiệu nhát rìu thấy ở trường hợp sai khớp khuỷu ra sau (do mỏm khuỷu trồi ra sau cùng với tư thế của cánh tay tạo ra một chỗ hõm vào trong như gốc cây bị rìu chặt dở dang); dấu hiệu phím đàn dương cầm thấy trong sai khớp cùng vai - đòn.
Sơ cứu nhanh khi bị sai khớp:
Không di chuyển để tránh lực tác động lên vết thương, không nắn hoặc cố cử động khớp bị trật, điều này có thể gây tổn thương khớp, cơ, dây chằng, mạch máu và thần kinh, nên ngồi im tại chỗ để mọi người sơ cứu giúp bạn.
Cố định khớp: Dùng vải hoặc áo (trường hợp khẩn cấp mà không có vải) băng cố định khớp để tránh làm vết thương bị động trong quá trình đưa vào bệnh viện.
Chườm lạnh lên vùng khớp bị thương để giảm sưng nề, có thể dùng đá lạnh chườm trực tiếp lên da hoặc cho đá vào miếng vải để chườm. Không nên chườm nóng, đắp muối, bóp thuốc rượu hay mật gấu, vì có thể làm tình trạng xấu đi.
Sau đó, nhờ bạn bè đưa tới bác sĩ để kịp thời xử lý chấn thương. Không được chủ quan cố gắng chịu đựng để vết thương tự lành. Vì nếu bị nặng mà không được điều trị sớm, chấn thương có thể để lại di chứng.