Không thể chống lại thiên tai, nhưng có thể giảm thiểu rủi ro
Thông tin từ Cục Quản lý đê điều và Phòng, chống thiên tai (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho biết tính đến 7 giờ sáng nay (14/10), thiệt hại do mưa lũ sau bão số 11 (bão Matmo) ước trên 8.720 tỷ đồng; hiện vẫn còn 3.188 nhà bị ngập, tập trung ở các tỉnh, thành phố gồm Bắc Ninh, Hà Nội và Phú Thọ.
Cụ thể, tính đến 7 giờ sáng nay, tại Bắc Ninh có 1.587 nhà đang bị ngập. Số nhà bị ngập tại Hà Nội là 1.503 nhà. Còn lại 98 nhà ở tỉnh Phú Thọ. Như vậy, so với thời điểm dự báo 7 giờ ngày 13/10, số nhà bị ngập ở đã được khắc phục (không còn ngập) ở Bắc Ninh là 8.486 nhà, tại Hà Nội 658 nhà.

Thiên tai nói chung có thể dự báo, giảm thiểu thiệt hại và phòng tránh được nếu công tác quy hoạch, đánh giá địa chất và giám sát xây dựng được thực hiện một cách khoa học và đồng bộ.
Các chuyên gia cho rằng, không có quốc gia nào trên thế giới có thể chống nổi thiên tai. Vấn đề không phải là chống, mà là giảm được bao nhiêu phần trăm tác động của thiên tai và tần suất nó xảy ra. Ngay cả những nước phát triển hàng đầu như Nhật Bản, Mỹ hay Pháp cũng phải chấp nhận thiệt hại khi gặp những hiện tượng thời tiết cực đoan.
TS. Trần Văn Miều, Phó Chủ tịch Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam - nhấn mạnh, dù không ai mong muốn ngập lụt xảy ra, nhưng hiện tượng tự nhiên như biến đổi khí hậu, thời tiết cực đoan hay "trận mưa lịch sử" là điều chúng ta buộc phải chấp nhận.
Theo ông Miều, nếu nói về biến đổi khí hậu, 90% nguyên nhân đến từ con người, chỉ khoảng 10% là do yếu tố tự nhiên như sóng thần, động đất hay núi lửa. Riêng đối với tình trạng ngập lụt ở các đô thị lớn như Hà Nội, ông Miều cho rằng không đến mức 90%, nhưng phần lớn là do con người chưa thực hiện được những giải pháp rốt ráo, khả thi. Chính sự thiếu chủ động đó khiến xã hội luôn bị động trước những đợt mưa lũ, gây ảnh hưởng nặng nề đến tâm lý, cuộc sống và tài sản người dân.
Dẫn chứng thực tế, Hà Nội đã đầu tư nhiều kinh phí để chống ngập, đấu nối hệ thống thoát nước, nhưng mỗi khi ngập xảy ra, vẫn có lý do rằng "hệ thống chưa đồng bộ", "chưa được đấu nối" hay "trạm xử lý nước chỗ này chỗ kia chưa hoàn thiện". Ông Miều khẳng định: "Thay vì đổ cho yếu tố khách quan, cần nhìn nhận trách nhiệm chủ quan là chính - do sự chuẩn bị chưa tốt và thiếu giải pháp kịp thời".
Nói về những giải pháp mang tính xanh và bền vững để khôi phục khả năng điều tiết nước cho đô thị, Phó Chủ tịch Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam Trần Văn Miều cho rằng quy hoạch là yếu tố then chốt. Đặc biệt, quy hoạch đô thị phải đi đôi với quy hoạch giao thông, đồng thời phải tính đến hệ thống thoát nước ngầm.
Ông Miều nhấn mạnh năm nhóm giải pháp cụ thể, bao gồm: Quy hoạch công trình ngầm đồng bộ, theo đó, hệ thống cống thoát nước, cáp quang, bưu chính viễn thông, đường ống cấp nước… cần được thiết kế và thi công tích hợp, tránh tình trạng "đào lên - lấp xuống" liên tục. Tiếp đến, cần chú trọng đến yếu tố kỹ thuật xây dựng, cần áp dụng kỹ thuật xây dựng phù hợp, xác định cốt nền hợp lý để đảm bảo khả năng thoát nước kịp thời; khơi thông dòng chảy tự nhiên, các sông rạch trong đô thị...
Mặt khác, nên tăng cường khả năng thấm hút tự nhiên thông qua việc mở rộng diện tích cây xanh, công viên và thảm cỏ, vì đây là những "bể chứa" tự nhiên giúp nước ngấm xuống đất. "Nếu đô thị bị bê tông hóa, nước chỉ chảy trên bề mặt, còn có cây xanh thì sẽ hút nước đi đáng kể," ông Miều nói và bổ sung thêm rằng cần nghiên cứu và xây dựng bể ngầm chứa nước mưa để giảm tải cho hệ thống thoát nước khi mưa lớn.
Có thể dự báo và giảm nhẹ rủi ro thiên tai
Những trận mưa lớn kéo dài sau các cơn bão vừa qua đã gây ra hàng loạt vụ sạt lở đất, lũ quét, lũ bùn đá nghiêm trọng tại khu vực miền núi phía Bắc, làm thiệt hại lớn về nhà cửa, giao thông và đời sống người dân. Theo TS Trịnh Hải Sơn, Viện trưởng Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), các tai biến này có thể dự báo và phòng tránh được nếu công tác quy hoạch, đánh giá địa chất và giám sát xây dựng được thực hiện một cách khoa học và đồng bộ.
Theo TS Trịnh Hải Sơn, vùng núi cao phía Bắc có đặc điểm địa hình bị chia cắt mạnh, nền đất đá phong hóa sâu, sông suối dày đặc và độ dốc lớn. Khi mưa lớn kéo dài, đất đá ngậm nước, mất liên kết, dễ sạt trượt – nhất là tại những khu vực có hoạt động của con người như mở đường, khai thác khoáng sản, xây dựng trên sườn dốc.
"Trong các đợt mưa vừa qua, nhiều khu vực vốn đã không ổn định bị phá vỡ hoàn toàn cân bằng tự nhiên, gây ra hàng loạt điểm sạt lở và ngập lụt nghiêm trọng," ông cho biết.
Tuy nhiên, theo ông, những tai biến này "không bất ngờ". Hoàn toàn có thể lường trước nếu có đánh giá đầy đủ về địa chất, thổ nhưỡng, lượng mưa và lịch sử trượt lở của từng khu vực. Thực tế, nhiều nơi vẫn bố trí dân cư, trường học, trạm y tế tại khu vực ven suối, chân taluy hoặc vùng từng ghi nhận nứt đất mà chưa được di dời hoặc gia cố.
Để phòng ngừa hiệu quả, Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản đang triển khai bản đồ phân vùng nguy cơ sạt lở đất, lũ bùn đá và lũ quét cho các tỉnh miền núi phía Bắc. Bản đồ này tích hợp các yếu tố địa chất, địa mạo, độ dốc, lượng mưa, sử dụng đất và mật độ dân cư, giúp chính quyền nhận biết khu vực có thể xây dựng, khu vực cần cảnh báo hoặc cấm tuyệt đối.
TS Trịnh Hải Sơn nhấn mạnh: "Chúng ta cần thay đổi tư duy, không chỉ xử lý hậu quả mà phải quản lý rủi ro thiên tai một cách chủ động. Mọi quy hoạch dân cư, công trình, phát triển hạ tầng đều phải dựa trên dữ liệu địa chất và bản đồ nguy cơ sạt lở chi tiết."
Bên cạnh đó, cần tích hợp dữ liệu địa chất – môi trường vào quy hoạch phát triển, từ quy hoạch đất đai, giao thông đến lựa chọn vùng tái định cư. "Nếu không, rủi ro sạt lở sẽ tiếp tục tái diễn như một vòng lặp không hồi kết," ông cảnh báo.
Theo chuyên gia, các giải pháp kỹ thuật như tường chắn đá, rọ thép, rãnh thoát nước là cần thiết tại các điểm xung yếu, nhưng chỉ là biện pháp tạm thời nếu không gắn với phục hồi rừng đầu nguồn, trồng cây bám đất và quản lý nước mặt hợp lý.
"Giải pháp công trình phải đi cùng giải pháp sinh thái và cộng đồng. Người dân cần được hướng dẫn nhận biết dấu hiệu sạt lở – như nứt nền nhà, đất mềm, cây nghiêng – trong khi chính quyền giám sát chặt việc thi công trên địa hình dốc," ông nói.
Công tác tuyên truyền, đào tạo cộng đồng nhận biết nguy cơ sạt lở cũng cần được đẩy mạnh. Đồng thời, đầu tư hệ thống quan trắc và cảnh báo sạt lở theo thời gian thực bằng công nghệ hiện đại sẽ giúp phát hiện sớm và giảm thiểu thiệt hại.
Theo TS Trịnh Hải Sơn, sạt lở đất, lũ quét không còn là hiện tượng bất ngờ mà là hệ quả có thể dự báo. Do đó, các địa phương cần rà soát lại toàn bộ khu dân cư, trường học, trụ sở nằm trong vùng nguy cơ để có kế hoạch di dời, gia cố; đồng thời lồng ghép bản đồ nguy cơ sạt lở, lũ bùn đá vào quy hoạch phát triển.
"Chúng tôi luôn sẵn sàng phối hợp với các địa phương miền núi phía Bắc trong việc xây dựng mô hình quản lý rủi ro thiên tai phù hợp, khoa học và hiệu quả. Chỉ khi quy hoạch dựa trên dữ liệu địa chất và sự tham gia của cộng đồng, chúng ta mới có thể giảm thiểu thiệt hại và bảo đảm an toàn lâu dài cho người dân vùng núi," ông khẳng định.