Lứa tuổi học sinh (từ 7-16 tuổi) rất dễ mắc chứng cận thị, độ cận thị tiến triển càng nhanh do mức độ làm việc nhìn gần bằng mắt càng nhiều. Cận thị nặng dẫn đến thoái hóa hắc võng mạc trung tâm gây giảm thị lực và có nguy cơ cao gây bong võng mạc, lác mắt, glôcôm...
Cận thị là loại tật khúc xạ thường gặp nhất, chiếm khoảng 25% tổng dân số trên thế giới. Việc gia tăng cận thị không những là gánh nặng cho xã hội mà việc điều trị cho những người bị cận thị nặng còn có thể gặp nhiều nguy cơ rủi ro.
Một nghiên cứu của Đại học Y Hà Nội khảo sát 250 bệnh nhân từ 5-18 tuổi cũng cho thấy, tỷ lệ xuất hiện tật cận thị cao nhất là ở học sinh tiểu học, chiếm 55,2%. Ngoài nguyên nhân di truyền như có hơn 24 gene có liên quan đến việc tăng nguy cơ phát triển cận thị thì phần lớn trẻ em Việt Nam bị suy giảm thị lực do ngồi sai tư thế khi học, học tập cường độ cao, dùng thiết bị điện tử quá nhiều và không có thói quen khám mắt định kỳ.
Nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng cận ở trẻ, trong đó có môi trường học tập của học sinh chưa tốt được thể hiện ở các điểm sau: chiếu sáng nơi học (phòng học, góc học tập) của các em chưa đủ sáng. Bàn ghế học tập không phù hợp với tầm vóc của học sinh. Do tư thế khi ngồi học của học sinh không đúng, nhất là khi viết bài hay làm bài tập, các em để mắt gần sát mặt bàn mà không được nhắc nhở. Do các em quá “say mê” đọc những cuốn sách hoặc truyện có cỡ chữ quá nhỏ hay vừa đi vừa đọc, vừa nằm vừa đọc, vừa học làm cho mắt chóng bị mỏi. Do chương trình học tập chính khóa quá tải so với lứa tuổi các em như thời gian học tại lớp trong 1 ngày, 1 tuần tại trường quá dài (từ 6 - 7 giờ trong ngày hoặc 30 - 36 giờ trong tuần). Ngoài ra, các em còn phải học thêm từ 1 - 2 buổi trong 1 tuần, do đó mắt càng bị căng thẳng thêm.
Hiện nay, học sinh từ nhỏ tuổi cho đến lớn tuổi đang có xu hướng sử dụng các loại thiết bị vi tính ngày càng nhiều và càng tăng cho nên con mắt vốn đã bị mỏi mệt trong quá trình học tập nay lại tiếp tục mệt mỏi thêm.
Thực tế, đôi mắt của học sinh ngày hôm nay phải sử dụng quá nhiều trong học tập mà rất ít được nghỉ ngơi, trong lúc nhà trường và bố mẹ quan tâm không đúng. Từ đó, đôi mắt trong sáng của các em đang từ tinh nhanh sẽ chuyển dần sang mệt mỏi dẫn tới tình trạng “cận thị giả” rồi chuyển tới cận thị thật. Đến lúc đó e rằng đã muộn và thị lực của trẻ đã giảm hẳn, phải có biện pháp can thiệp y khoa.
Cần khám mắt định kỳ để phát hiện sớm cận thị.
Cần phải làm gì?
Để kiểm soát tiến triển cận thị ở trẻ em, cần ngăn ngừa khởi phát cận thị và hạn chế tăng số cận ở trẻ. Trên thế giới, các nhà nghiên cứu và đưa ra nhiều phương pháp như: Dùng thuốc atropin nồng độ thấp: Đây là nhóm thuốc đối kháng muscarin không chọn lọc, tại mắt nó có tác dụng: giãn đồng tử và liệt điều tiết. Với nồng độ thấp 0,01%, nó có tác dụng làm hạn chế tăng số cận tới 50% trường hợp mà không gây những tác dụng phụ như: lóa mắt, chói mắt, khó nhìn gần... Ngoài tác dụng kiểm soát tăng số cận, atropin nồng độ thấp còn được sử dụng để kiểm soát khởi phát cận thị trên trẻ em.
Dùng kính tiếp xúc: Kính tiếp xúc (kính áp tròng) là một loại thiết bị y tế tiếp xúc trực tiếp lên bề mặt nhãn cầu, kính tiếp xúc gồm 2 loại: kính mềm và kính cứng. Nhờ tác dụng làm giảm ảnh mờ ở vùng võng mạc chu biên khi sử dụng một số loại kính đặc biệt sau giúp hạn chế tăng số cận.
Kính tiếp xúc mềm 2 tròng (bifocal soft contact lenses): Với thiết kế có 2 tiêu cự nên người sử dụng có thể nhìn rõ cả khi nhìn xa và nhìn gần. Kính tiếp xúc mềm đa tròng (multifocal soft contact lenses): Với thiết kế đa tiêu cự nên người sử dụng có thể nhìn rõ cả khi nhìn xa, nhìn gần và nhìn trung gian.
Kính OrthoK: Là một loại kính tiếp xúc cứng thấm khí được đeo vào ban đêm nhằm tác dụng làm mỏng biểu mô giác mạc trung tâm, làm dầy biểu mô vùng cạnh ngoại vi (midperipheral epithelial) giúp làm chậm phát triển trục nhãn cầu so với kính thấm khí đơn tiêu. Nhờ tác dụng tạm thời làm phẳng giác mạc trung tâm giúp người sử dụng có thể nhìn rõ ban ngày mà không cần đeo kính.
Dùng kính gọng: Với kính gọng đơn tròng khi đeo sẽ cho hình ảnh mờ ở vùng chu biên của võng mạc, cũng tác dụng giống như kính tiếp xúc 2 tròng và đa tròng, những thiết kế kính gọng đặc biệt sau cũng giúp hạn chế tăng số cận: kính hai tròng (executive bifocals); kính đa tròng: Progressive additional lenses (PALs).
Tăng cường hoạt động ngoài trời và giảm thời gian nhìn gần: Nhiều nghiên cứu ở nước ngoài cho thấy, nhóm trẻ tham gia hoạt động ngoài trời nhiều hơn thì tỷ lệ gia tăng cận thị thấp hơn nhiều so với nhóm trẻ ít tham gia. Ngoài ra, việc giảm thời gian cho các công việc nhìn gần cũng góp phần kiểm soát tiến triển cận thị ở trẻ.
Phòng cận thị ở lứa tuổi học đường
Phòng bệnh và hạn chế cận thị ở trẻ em cần đảm bảo đủ ánh sáng khi trẻ đọc hoặc viết, lưu ý là ánh sáng thích hợp không quá chói hoặc quá mờ vì cả hai đều làm ảnh hưởng đến mắt. Trẻ giữ mắt đọc và viết tối thiểu cách xa 30cm. Ngồi cách khoảng 50cm với máy tính. Hạn chế đọc truyện với phông chữ nhỏ hoặc mờ. Trẻ không vừa ăn vừa đọc, vừa đi vừa xem, không nằm xuống đọc, hầu hết trẻ đều có thói quen nằm trên giường để đọc sách, đọc truyện hoặc nằm ra sàn nhà, điều này sẽ khiến mắt của trẻ bị mỏi. Mắt cần được nghỉ một lát, nhìn ra xa thư giãn sau một giờ đọc sách, xem tivi. Ngủ sớm, ngủ đủ giấc và đúng giờ. Chăm sóc dinh dưỡng đúng và đủ: vitamin A-C-E, khoáng chất, kẽm, selen... Học kết hợp với vui chơi và hoạt động ngoại khóa, luyện tập thể dục thể thao sẽ làm hạn chế gia tăng cận thị.
Lời khuyên của thầy thuốc
Kiểm soát tốt độ cận cho trẻ là một vấn đề lớn của sức khỏe cộng đồng. Nhiều người cứ nghĩ cận thị là một tật khúc xạ đơn giản, chỉ cần đeo kính, nhưng thực tế, cận thị tiến triển nếu không được điều trị sẽ gây thoái hóa mắt, mất thị lực và mù lòa. Cận thị học đường gây ảnh hưởng đến khả năng nhận biết hình thể, sử dụng bàn tay, sự nhanh nhạy, năng động gây ra nhiều hạn chế trong sinh hoạt, học tập và giao tiếp khám phá thế giới xung quanh. Đặc biệt, các bệnh về mắt còn làm cho quá trình giảm thị lực và lão hóa xảy ra nhanh hơn. Đối với trường hợp nhẹ, ít tiến triển thì trẻ có thể đeo kính và điều trị nội khoa để làm giảm mức độ tiến triển của bệnh cận thị và ngăn chặn sự xuất hiện các biến chứng gây giảm thị lực cho trẻ. Với những trường hợp tiến triển nhanh, độ cận thị ngày một gia tăng thì các bậc cha mẹ nên cho trẻ đi khám bác sĩ chuyên khoa để được tư vấn và lựa chọn phương pháp điều trị tốt nhất.