1. Nguyên nhân gây nấc
Có rất nhiều nguyên nhân gây nấc khác nhau:
- Do bệnh lý ở đường tiêu hóa: Bệnh lý trào ngược dạ dày - thực quản, viêm loét dạ dày, viêm thực quản, viêm túi mật, viêm tụy, dạ dày trướng hơi hoặc do sau khi ăn quá no; uống các loại nước có gas làm dạ dày bị giãn căng nhanh chóng tạo ra những cơn nấc ngắn...
- Do thay đổi nhiệt độ: Mặc dù cơ chế nấc do thay đổi nhiệt độ đột ngột vẫn chưa được rõ ràng, nhưng thực thế lâm sàng cho thấy, khi cơ thể tiếp xúc với sự thay đổi đột ngột tạo ra cơn nấc.
- Do thuốc: Các rối loạn chuyển hoá do thuốc và độc chất (như tăng urê máu, ngộ độc rượu, sau dùng một số thuốc) cũng là nguyên nhân thường gặp. Rất nhiều loại thuốc có khả năng gây nấc như nhóm corticosteriod, benzodiazepine, thuốc điều trị parkinson, các hoá chất chống ung thư, kháng sinh (như nhóm macrolid, fluoroquinolon), thuốc trợ tim (digoxin) và một số dẫn xuất thuốc phiện (hydrocodone). Ngoài ra, một số thuốc chữa nấc lại cũng có thể gây nấc.
- Căng thẳng: Cũng như sự thay đổi nhiệt độ, đến nay vẫn chưa tìm được mối liên quan giữa căng thẳng và cơn nấc cụt, nhưng khi bị căng thẳng cũng khiến cơ thể bị nấc cụt.
- Phẫu thuật: Sau khi phẫu thuật ở vùng ngực và bụng, dây thần kinh phế vị, thần kinh hoành bị kích thích tạo ra nấc.
Ngoài ra, còn một số nguyên nhân gây nấc khác có thể gặp như: Do tổn thương thần kinh trung ương (chấn thương sọ não, viêm não); nhồi máu cơ tim. Một số trường hợp nấc không xác định được nguyên nhân.
Mặc dù nấc không gây nguy hiểm đến tính mạng, nhưng mang lại nhiều phiền toái cho người bệnh. Nấc sau mổ có thể gây đau đớn, làm nứt vết mổ và giảm sút thể lực của người bệnh. Những trường hợp nấc kéo dài thường làm cho người bệnh bị mệt mỏi, mất ngủ, mất nước và kiềm hô hấp do tăng thông khí.
2. Điều trị nấc bằng thuốc gì?
2.1 Các thể nấc:
- Cấp tính: Diễn biến dưới 48 giờ (tình trạng nấc này có thể không cần dùng thuốc mà chỉ nên dùng các biện pháp không dùng thuốc).
- Mạn tính: Kéo dài trên 48 giờ đến 2 tháng.
- Nấc dai dẳng: Kéo dài trên 2 tháng (tình trạng này thường gây ra do các tổn thương bệnh lý khác).
Nấc chỉ là triệu chứng của một nguyên nhân nào đó, do vậy cần tìm ra nguyên nhân gây nấc để điều trị. Cần xác định tất cả các nguyên nhân gây nấc hoặc làm nặng tình trạng nấc để loại bỏ hoặc sửa chữa nếu có thể. Đây là biện pháp quan trọng nhất để điều trị nấc kéo dài. Trong trường hợp không xác định được hoặc không thể điều trị được nguyên nhân, có thể cân nhắc sử dụng các phương pháp điều trị triệu chứng.
2.2 Các thuốc điều trị nấc
Rất nhiều loại thuốc có thể giúp giảm triệu chứng nấc theo những cơ chế khác nhau. Cụ thể:
- Baclofen: Có tác dụng hoạt hoá một chất dẫn truyền thần kinh ức chế, từ đó ngăn chặn được các kích thích nấc. Đây là một trong những thuốc hiệu quả nhất trong điều trị các trường hợp nấc mạn tính do các bệnh lý ở dạ dày - thực quản; tổn thương thân não hoặc nấc vô căn và những trường hợp không đáp ứng với nhiều loại thuốc khác...
Tác dụng phụ của thuốc là có thể gây buồn ngủ, mất ngủ, yếu cơ, lú lẫn...
- Các thuốc liệt thần như chlorpromazine, promethazine, prochloperazine và haloperidol: Có tác dụng giảm nấc thông qua việc ức chế cạnh tranh với dopamin ở vùng dưới đồi.
Tác dụng phụ thường gặp của các thuốc này là gây buồn ngủ, khô miệng và dấu hiệu ngoại tháp... Do nhiều tác dụng phụ, nên hiện nay nhóm thuốc này ít được sử dụng trong điều trị giảm nấc. Thuốc được chỉ định dùng khi nấc không đáp ứng các thuốc khác.
- Metoclopramide: Là một thuốc thường dùng để chống nôn cũng có tác dụng giảm nấc thông qua việc làm giảm cường độ co bóp của thực quản.
- Các thuốc ức chế bơm proton (omeprazole): Có thể giảm triệu chứng nấc thông qua việc giảm tiết dịch vị và giảm tình trạng đầy trướng hơi của dạ dày, giảm cường độ co bóp của thực quản.
- Nifedipine: Thuốc thuộc nhóm chẹn kênh canxi dùng trong điều trị tăng huyết áp cũng có thể giúp giảm nấc thông qua việc đảo ngược quá trình khử cực bất thường trong cung phản xạ nấc.
- Sertraline: Có tác dụng chống nấc thông qua tác dụng giảm các nhu động bất thường ở thực quản, dạ dày và cơ hoành, gây ức chế cung phản xạ nấc.
Ngoài ra, một số thuốc khác cũng có tác dụng hỗ trợ trong việc giảm nấc: Nefopam, lidocaine, amitriptyline, amantadine, acid valproic, gabapentin, clonazepam, cisapride... , một số thuốc gây mê và chống co giật (như phenytoin). Các thuốc này chỉ sử dụng trong các tình huống nấc đặc biệt.
Trường hợp nấc dai dẳng không đáp ứng với một loại thuốc, cần phải phối hợp đồng thời nhiều thuốc. Phác đồ phối hợp thường được sử dụng là cisapride + omeprazole + baclofen, có thể dùng thêm gabapentin.
2.3 Điều trị nấc không dùng thuốc
Một số nghiệm pháp mang tính cơ học có thể được sử trước khi dùng thuốc. Nếu các biện pháp này mang lại hiệu quả thì không cần dùng thuốc:
- Hít sâu và nín thở.
- Uống nước thật chậm và bịt mũi trong khi nuốt.
- Uống một cốc nước lạnh và bịt tai trong khi uống.
- Uống một cốc nước ấm có pha một thìa mật ong.
- Nuốt nhanh một thìa đường hoặc mật ong...
- Kích thích vào vùng hầu họng, ngoáy mũi gây hắt hơi.
- Ép mạnh vào vùng cơ hoành bằng tay.
- Xoa bóp vùng hậu môn.
Ở trẻ em còn đang bú sữa cũng thường bị nấc, có thể điều trị bằng cách gây động tác mút ở trẻ (cho trẻ bú mẹ, bú bình hoặc núm vú giả...).
Một phương pháp khác có thể được sử dụng là hít thở vài lần vào một túi kín (thở lại khí giàu carbonic), đây là phương pháp khá mạo hiểm vì có thể gây tăng nồng độ carbonic trong máu dẫn đến toan máu và cần được thực hiện dưới sự giám sát của người khác và phải có oxy dự phòng.
Hiệu quả của các biện pháp cơ học này thường chỉ mang tính tạm thời. Một số phương pháp phức tạp hơn có thể được thử nghiệm như châm cứu, gây tê ngoài màng cứng ở cột sống cổ, phong bế thần kinh hoành...
Phẫu thuật cắt dây thần kinh hoành là biện pháp cuối cùng, chỉ dùng trong những trường hợp nấc nặng, dai dẳng và không đáp ứng với các biện pháp điều trị khác vì có nguy cơ gây suy hô hấp.
Mời độc giả xem thêm video:
Chế độ ăn giúp giảm nguy cơ ung thư | SKĐS