Loét da thường dễ xảy ra với những người cao tuổi ít vận động, người bệnh nằm lâu tại giường và có khuynh hướng dễ bị loét do tỳ đè đối với một số trường hợp như: người bệnh bị liệt, người bệnh gãy xương, chấn thương phải hạn chế cử động... Do đó, người bệnh cần được chăm sóc đúng cách để tránh gây ra tình trạng loét không đáng có.
Người bệnh nặng, người cao tuổi, vận động đi lại rất khó khăn, bệnh nhân thường nằm một chỗ, do đó, sự đè ép của sức nặng cơ thể tác động lên da và tổ chức dưới da làm cho các mạch máu co thắt lại, hạn chế sự lưu thông máu và gây thiếu máu tổ chức. Tình trạng này kéo dài dẫn đến hoại tử tổ chức, nhiễm khuẩn. Đồng thời, loét có thể gây nên bởi lực trượt ở mặt da do di chuyển.
Cách phát hiện sớm vùng da loét
Phát hiện sớm các dấu hiệu của loét ép: vùng da tỳ đè ửng đỏ và sưng nề, không mất đi trong vòng 15 phút kể từ khi thôi không tỳ lên; tiến hành mát-xa, xoa bóp trong vòng 15-30 phút mà vết ửng đỏ không mất đi là dấu hiệu chuẩn bị loét vùng da đó. Các vùng da dễ bị loét là những nơi mà da sát xương, những điểm tỳ khi nằm, ngồi, đứng, đi như: vùng chẩm, vai, cùng cụt, mông, gót chân, 2 mẫu chuyển lớn xương đùi... Bên cạnh đó, các yếu tố thuận lợi dễ gây loét: da ẩm ướt làm tăng lực trượt dễ gây loét, đái dầm dề là điều kiện thường xuyên tạo nên loét xuất hiện. Bệnh nhân đang điều trị các thuốc kháng viêm non-steroid, thuốc giảm đau làm tăng khả năng bị loét.
Ở giai đoạn đầu, vết loét hiện diện dưới dạng tử ban trên vùng da nhô xương hay vùng bị đè. Hầu hết ở giai đoạn này, loét có thể mất đi nếu không còn sự tỳ đè. Có thể khó nhận định đối với những người da sậm màu.
Người cao tuổi phải điều trị bệnh lâu dài rất dễ bị loét da.
Ở giai đoạn nặng hơn, vết loét trên bề mặt có biểu hiện như một vết trầy, hố nông hay phồng giộp. Biểu hiện trên da có thể bị mất phần biểu bì, bì, hay cả phần bì và u mỡ. Các vết phồng rộp da thường gây cảm giác đau.
Nếu không được điều trị, chăm sóc đúng, giai đoạn tiếp theo vết hoại tử xuất hiện dưới dạng toàn bộ bề dày của da bị hoại tử có liên quan đến sự tổn thương hay mất mô dưới da, có thể mở rộng xuống phía dưới nhưng không sâu. Vết loét không được điều trị chăm sóc sẽ làm mất toàn bộ bề dày của da và có sự phá hủy rộng hơn, mô hoại tử, hay tổn thương phần cơ, xương hay các cấu trúc nâng đỡ và tổn thương có thể có sự ăn mòn, hay các đường rò. Phải mất hàng tháng hay hàng năm vết loét giai đoạn này mới có thể lành.
Chăm sóc như thế nào để hạn chế loét da?
Để hạn chế tối đa những yếu tố làm tăng quá trình loét da ở bệnh nhân cao tuổi, trong quá trình chăm sóc bệnh nhân, nhất là những bệnh nhân nằm trên giường lâu năm, 1-2 giờ phải thay đổi tư thế nghiêng, ngửa, sấp, lật người bệnh kiểm tra và làm vệ sinh như lau khô mồ hôi, làm mát vùng tỳ đè. Tư thế nằm ngửa cần có gối mềm kê ở các vùng thắt lưng, khoeo, gót. Tư thế nằm nghiêng cần có gối kê ở thắt lưng, gối ở gót. Tất cả các gối kê cần giữ tư thế sinh lý của cột sống, của chi và chống loét do đè ép.
Thường xuyên vệ sinh sạch sẽ thân thể người bệnh. Làm thoáng da và dùng một số bột chống ẩm xoa lên vùng thường xuyên bị đè, cọ sát nhiều của người bệnh. Người bệnh phải được nằm nơi thông thoáng và khô ráo, tránh ẩm mốc dễ tạo các vết loét; nên sử dụng nệm chống loét để lót cho bệnh nhân nằm, nệm chống loét có tác dụng rất lớn trong việc tạo sự thông thoáng vùng da cọ sát, đồng thời giúp người chăm sóc đỡ phải thay đổi tư thế nằm của bệnh nhân hay làm khô vùng da ẩm ướt.
Dự phòng loét rất quan trọng, người chăm sóc bệnh nhân nằm lâu cần lưu ý hàng ngày để hạn chế tối đa vết loét da. Nếu người bệnh đã bị loét, cần săn sóc, điều trị đúng quy cách để vết loét ép không tăng thêm mà làm cho quá trình lành vết loét nhanh chóng. Điều trị loét là quá trình kéo dài, thời gian tính bằng tháng, thậm chí là năm, cần phải kiên trì, theo dõi chặt chẽ mới đem lại kết quả theo ý muốn.
Lời khuyên của thầy thuốc
Ngoài vệ sinh, chăm sóc dinh dưỡng đầy đủ rất cần thiết, vì sự thiếu hụt dinh dưỡng sẽ làm chậm quá trình lành vết thương bằng cách ức chế sự tổng hợp collagen. Những người bệnh thiếu hụt protein dễ có khả năng gây các nhiễm trùng vết loét nhất vì chúng làm giảm chức năng của bạch cầu. Ngoài ra, chất béo cũng rất cần thiết vì chúng tạo nên cấu trúc màng tế bào. Các vitamin và muối khoáng cũng giữ vai trò quan trọng trong quá trình lành vết thương. Vì vậy, cần cho bệnh nhân ăn uống đủ chất dinh dưỡng để phục hồi sức khỏe và dự phòng loét. Khi bệnh nhân đã bị loét, cần đến ngay cơ sở y tế để điều trị, không điều trị theo mách bảo tránh nhiễm khuẩn da. Không nặn, không xoa bóp vùng da loét và quanh vết loét.