Trên thị trường bacitracin thường được kết hợp kẽm hoặc với các kháng sinh khác như neomycin hay polymyxin B và đôi khi với cả corticosteroid để điều trị nhiễm khuẩn tại chỗ (các bệnh ngoài da) do vi khuẩn nhạy cảm gây ra và được dùng để điều trị một số bệnh về mắt như chắp, viêm kết mạc cấp và mạn, loét giác mạc, viêm giác mạc và viêm túi lệ.
Trước đây, bacitracin còn được dùng để tiêm, nhưng do có độc tính cao với thận và có nhiều thuốc hiệu lực và an toàn hơn, nên hiện nay tôi không còn được dùng để tiêm nữa, mà chủ yếu được sản xuất dưới dạng dùng ngoài để bôi tại chỗ, ngoài da.
Bacitracin có tác dụng diệt khuẩn hoặc kìm khuẩn bằng cách ức chế vi khuẩn tổng hợp vỏ tế bào, gây tổn hại màng bào tương của vi khuẩn… khiến cho vi khuẩn không thể tồn tại, phát triển. Nhưng tác dụng diệt khuẩn hay kìm khuẩn của bacitracin tôi còn phụ thuộc vào nồng độ thuốc đạt được tại vị trí nhiễm khuẩn và vào sự nhạy cảm của vi khuẩn gây bệnh.
Khi dùng bôi ngoài da, bôi lên bề mặt bị nhiễm khuẩn 1 - 5 lần/ngày. Khi bôi trị bệnh ở mắt, bôi một dải mỏng (khoảng 1cm) mỡ lên kết mạc, cứ 3 giờ hoặc ngắn hơn, bôi 1 lần hoặc theo chỉ định của bác sĩ.
Cần thận trọng khi xoa bacitracin lên vết thương hở, vì thuốc có thể hấp thu qua vết thương, bàng quang, dịch ổ bụng, có thể gây ra tác dụng phụ mặc dù độc tính này thường do neomycin phối hợp trong sản phẩm gây ra.
Mặc dù là thuốc dùng ngoài da nhưng bacitracin có thể gây phản ứng dị ứng chậm, phát ban, gây trạng thái giống sốc sau khi bôi ngoài da ở những người bệnh quá mẫn. Người bệnh cần ngừng điều trị nếu có phản ứng quá mẫn xảy ra. Đối với dạng phối hợp với các neomycin và polymyxin B sulfat… không nên điều trị bằng chế phẩm này quá 7 ngày.