Một người mắc bệnh đái tháo đường càng lâu, điều trị không tốt thì nguy cơ phát triển bệnh võng mạc càng cao. Bệnh ảnh hưởng đến trên 80% người bị đái tháo đường 20 năm trở lên.
Bệnh võng mạc do đái tháo đường có thể dẫn đến mù lòa
Theo WHO, bệnh võng mạc do đái tháo đường chiếm 50-60% trên bệnh nhân đái tháo đường type 2 và 90% trên bệnh nhân đái tháo đường type 1. Uớc tính bệnh đái tháo đường sẽ ảnh hưởng đến 161 triệu dân vào năm 2045, gây ra những gánh nặng to lớn đến kinh tế, xã hội.
Việc phát hiện sớm bệnh võng mạc do đái tháo đường cũng như điều trị bảo vệ thị lực cho bệnh nhân cũng là thách thức lớn mà ngành nhãn khoa đang đối mặt.
Bệnh võng mạc do đái tháo đường là một biến chứng của bệnh đái tháo đường, kết quả từ tổn thương các mạch máu của mô nhạy sáng ở phía sau của mắt (võng mạc). Ban đầu, bệnh có thể không để lại triệu chứng hoặc chỉ có vấn đề tầm nhìn nhẹ. Tuy nhiên, nếu không được chữa trị, bệnh võng mạc tiểu đường có thể dẫn đến mù lòa.
Ghi nhận thực tế cho thấy bệnh võng mạc do đái tháo đường xảy ra trong 90% các trường hợp đái tháo đường tiến triển sau 10-15 năm, bất kể đái tháo đường phụ thuộc insulin hay không. Nếu không được phát hiện và điều trị sớm, những tổn thương của bệnh ở đáy mắt sẽ rất nặng nề như phù hoàng điểm, xuất huyết võng mạc, xuất huyết dịch kính, bong võng mạc... dẫn đến mù lòa.
Người bị đái tháo đường và kiểm soát lượng đường máu kém càng có nhiều khả năng có phát triển bệnh võng mạc do đái tháo đường. Nguy cơ lớn hơn nếu có kèm các bệnh như: tăng huyết áp (đặc biệt có biến chứng thận), cholesterol máu cao, phụ nữ đang mang thai bị bệnh đái tháo đường...
Nguyên nhân của bệnh võng mạc do đái tháo đường là do có quá nhiều đường trong máu làm hỏng những mạch máu nhỏ (mao mạch) nuôi dưỡng võng mạc. Các mao mạch giãn ra để cho máu, các chất dịch, mỡ… thấm qua thành mao mạch và làm cho võng mạc bị phù. Nếu vùng phù này ở hoàng điểm sẽ làm cho mắt nhìn mờ.
Ngoài ra, bệnh đái tháo đường cũng làm giảm tốc độ hồng cầu, tăng khả năng kết tụ của tiểu cầu, tăng độ quánh của máu… do đó làm cho các mao mạch bị tắc, gây ra thiếu máu võng mạc. Võng mạc không được nuôi dưỡng đầy đủ sẽ sinh ra những mạch máu mới, bất thường còn gọi là tân mạch, có thể vỡ và gây chảy máu trong mắt.
Các giai đoạn tổn thương võng mạc do bệnh đái tháo đường
Bệnh võng mạc do đái tháo đường liên quan đến sự tăng trưởng bất thường của mạch máu trong võng mạc, nên bệnh có những biến chứng ảnh hưởng nghiêm trọng đến tầm nhìn.
- Tổn thương giai đoạn sớm còn gọi là giai đoạn không tăng sinh
Ở giai đoạn này do chưa có sự xuất hiện của các mạch máu mới được tạo ra. Thành mạch máu bị yếu, tạo ra các túi phình (còn gọi là mạch lựu trên thành mạch máu), các chất trong máu và máu có thể thấm qua thành mạch gây ra các đốm xuất tiết.
Khi bệnh tiến triển nặng hơn nữa các mạch máu nhỏ bị tắc nghẽn, gây thiếu máu từng vùng ở võng mạc. Các mạch máu lớn hơn phình to và đường kính không đều (có chỗ phình to, có chỗ thu nhỏ). Các sợi thần kinh ở võng mạc cũng bị phù nề, vùng trung tâm của võng mạc (hoàng điểm - là vùng cho thị lực cao nhất) có khi cũng bị phù nề gây ra phù hoàng điểm. Nếu được phát hiện sớm trong giai đoạn này và được điều trị kịp thời thì có thể phòng ngừa được mù lòa.
- Tổn thương giai đoạn nặng còn gọi là tổn thương tăng sinh
Đây là giai đoạn nặng nhất của bệnh do võng mạc bị thiếu máu và ảnh hưởng của tăng glucose huyết, các mạch máu mới được tạo ra (tăng sinh mạch máu).
Các mạch máu mới tạo thường phát triển không đúng vị trí, thành mạch cũng rất yếu. Chúng có thể phát triển và chảy máu vào thể kính (thể kính là dịch nằm trong lòng nhãn cầu), các mô sẹo do tăng sinh mạch máu gây ra có thể làm bong võng mạc, dễ dẫn đến mù lòa.
Hơn nữa, các mạch máu mới tạo này phát triển vào đường dẫn lưu của dịch đi ra khỏi nhãn cầu, áp lực có thể tăng lên trong nhãn cầu gây ra tăng nhãn áp. Điều này có thể gây tổn thương dây thần kinh dẫn truyền hình ảnh từ mắt đến bộ não.
Ngăn ngừa bệnh võng mạc do đái tháo đường
Bệnh nhân đái tháo đường có thể kéo dài thời gian không mắc bệnh, hoặc làm chậm diễn tiến bệnh võng mạc do đái tháo đường bằng cách giữ mức độ đường máu và huyết áp ổn định. Các chỉ số này luôn nằm trong giới hạn an toàn mà bác sĩ điều trị đái tháo đường đặt ra.
Phải loại bỏ các yếu tố nguy cơ ảnh hưởng đến võng mạc như thuốc lá, béo phì… Tất cả các điều này sẽ giúp bảo vệ thị lực của người bệnh lâu hơn.
Ngoài ra, bệnh nhân đái tháo đường phải đi khám mắt định kỳ 3 tháng, 6 tháng hoặc 1 năm 1 lần để bác sĩ tại bệnh viện mắt phát hiện sớm tổn thương võng mạc, điều trị sớm sẽ giữ được thị lực, ngăn ngừa tình trạng giảm thị lực hoặc mù.
Theo thống kê của Hiệp hội Đái tháo đường Thế giới (IDF), năm 2021 toàn thế giới có 537 triệu người mắc bệnh đái tháo đường, dự kiến sẽ ở mức 643 triệu người vào năm 2030. Đến năm 2045, số người mắc bệnh đái tháo đường trên toàn thế giới khoảng 783 triệu, ở Việt Nam dự kiến là 7,9 triệu người.
Các chuyên gia cho rằng, bệnh võng mạc do đái tháo đường là bệnh lý đang ảnh hưởng đến 103 triệu dân trên thế giới, ước tính sẽ ảnh hưởng đến 161 triệu dân vào năm 2045, gây ra những gánh nặng to lớn đến kinh tế, xã hội do tác động chính đến nhóm dân số trong độ tuổi lao động.
Việc phát hiện sớm bệnh võng mạc đái tháo đường cũng như điều trị bảo vệ thị lực cho bệnh nhân cũng là thách thức lớn mà ngành nhãn khoa đang đối mặt.