Đau là triệu chứng của rất nhiều bệnh khác nhau. Có những trường hợp đau mà những thuốc giảm đau thông thường không cải thiện được triệu chứng này, được gọi là đau mạn tính. Bệnh nhân cần phải sử dụng thuốc trong bệnh này ra sao?
Một số nguyên nhân gây đau mạn tính
Có thể liệt kê một số nguyên nhân, làm kéo dài và trầm trọng mức độ đau của bệnh nhân, đó là: đau bởi các bệnh lý như ung thư, viêm khớp, đau nửa đầu, đau xơ cơ và bệnh nhân đau do đái tháo đường...; cơn đau thần kinh của những bệnh nhân đã từng bị Herpes (zona); đau sau chấn thương; do tình trạng tâm lý của bệnh nhân, yếu tố này có thể làm những cơn đau thêm trầm trọng hơn và kéo dài hơn.
Thuốc nào để điều trị?
Một số nhóm thuốc đã được sử dụng điều trị cho các trường hợp đau mạn tính:
Thuốc chống trầm cảm: Các thuốc chống trầm cảm 3 vòng tỏ ra rất hữu ích trong xử trí bệnh nhân đau mạn tính, mặc dù ban đầu mục đích sử dụng của các thuốc thuộc nhóm này là điều trị chứng trầm cảm. Tuy chưa thể giải thích rõ được cơ chế của nhóm thuốc này nhưng tác dụng giảm đau của các thuốc này có khởi đầu nhanh. Hơn nữa, thực nghiệm điều trị đã cho thấy, bệnh nhân đau mạn tính mà không bị trầm cảm khi dùng thuốc chống trầm cảm thì sẽ làm giảm cơn đau. Ngoài ra cũng có một số nghiên cứu chỉ ra rằng các thuốc chống trầm cảm làm tăng tác dụng của các thuốc giảm đau có chứa thuốc phiện. Việc kết hợp giữa thuốc chống trầm cảm cùng với các thuốc giảm đau có chứa thuốc phiện rất có hiệu quả trong những trường hợp đau dữ dội, dai dẳng như ung thư.
Viêm khớp gây ra các cơn đau mạn tính, khi dùng thuốc cần phải theo chỉ định của bác sĩ.
Ngoài ra, các thuốc chống trầm cảm ba vòng đặc biệt có giá trị trong xử trí đau do bệnh thần kinh như trong bệnh thần kinh do đái tháo đường và đau dây thần kinh sau Herpes. Đây là lựa chọn tốt nhất để điều trị đau trong 2 trường hợp bệnh lý trên.
Các thuốc chống trầm cảm hay được sử dụng hiện nay đó là amitriptyline, clomipramine, desipramin, imipramine, maprotilin và paroxetine. Tuy nhiên, việc sử dụng các thuốc trong nhóm này cần có sự tư vấn kỹ của bác sĩ do một số các tác dụng phụ có thể gặp như giảm huyết áp tư thế đứng hay loạn nhịp tim...
Thuốc chống co giật và thuốc chống loạn nhịp: Các thuốc chống co giật đáng chú ý trong nhóm này đó là carbamazepin, phenytoin, valproate, clonazepam, baclofen, gabapentin. Những thuốc này chủ yếu hữu ích cho bệnh nhân đau do bệnh thần kinh. Phenytoin và carbmazepin đều đã được chứng minh có tác dụng giảm đau với dây thần kinh sinh ba với tính chất đặc trưng của cơn đau là ngắn, đột ngột và giống như bị điện giật. Trên thực tế, các thuốc chống co giật đều tỏ ra hữu hiệu cho những loại tính chất đau như vậy.
Lưu ý là cần kiểm tra định kỳ huyết học và chức năng gan khi sử dụng những thuốc này, nhất là khi dùng carbamazepine và valproate.
Thuốc có chứa thuốc phiện dùng dài ngày: Mặc dù đây là thuốc hạn chế được kê đơn, nhưng được chấp nhận sử dụng cho bệnh nhân bị đau do bệnh ác tính. Hiện nay vẫn đang còn tranh cãi sử dụng những thuốc này cho những trường hợp bệnh lý đau không có nguồn gốc ác tính. Tuy nhiên, đối với tình trạng đau quá nặng nề không thể cải thiện được bằng bất kỳ phương cách nào khác thì nhóm thuốc này là lựa chọn cuối cùng cho bệnh nhân. Điều này hoàn toàn có thể hiểu được vì các chất giống thuốc phiện là những chất mạnh nhất và có phạm vi công hiệu rộng nhất trong các nhóm thuốc giảm đau.
Đối với những bệnh nhân sử dụng thuốc này lần đầu ít khi xảy ra nghiện nhưng nếu dùng dài ngày sẽ có tình trạng dung nạp và phụ thuộc thuốc. Do đó, khi sử dụng nhóm thuốc này cần được cân nhắc kỹ và phải được giám sát chặt chẽ bởi bác sĩ điều trị.
Một số thuốc thông dụng của nhóm này đó là: codein, oxycodone, morphin...
Táo bón là một tác dụng phụ phổ biến của nhóm thuốc này gây ra cần được chú ý và nên đề phòng điều trị.
Các nhóm thuốc trên đây là những nhóm thuốc được cân nhắc và áp dụng điều trị trong những trường hợp đau mạn tính khi mà các phương pháp khác tỏ ra không hiệu quả, giúp bệnh nhân giảm bớt đi phần nào những cơn đau đang hành hạ bản thân họ. Tuy nhiên, mỗi nhóm thuốc trên đều có những tác dụng phụ và có thể xảy ra tương tác thuốc nguy hiểm khi sử dụng chung với những thuốc khác. Chính vì vậy, người bệnh không nên tự ý mua và sử dụng mà cần có sự tư vấn kỹ của bác sĩ điều trị. Khi gặp bất kỳ một triệu chứng bất thường nào cần ngưng ngay thuốc và báo cho bác sĩ.