Căn bệnh xấu xí
Người bệnh tự mô tả mình như sau: ”Tôi là người mang vảy da màu bạc bong ra liên tục”, bản thân người bệnh cảm thấy sợ chính họ. Bệnh vảy nến không gây chết người nhưng là một bệnh xấu xí, ảnh hưởng rất nhiều đến tâm lý người bệnh, chất lượng cuộc sống của họ.
Bệnh vảy nến có tỷ lệ 2-3% (nghiên cứu ở nhiều nước cho thấy dao động từ 1-8%) dân số. Đó là bệnh lý có một số biểu hiện lâm sàng rất đặc biệt. Biểu hiện thường gặp nhất là vảy nến thể thông thường (Psoriasis vulgaris) là bệnh mạn tính, tái phát, có mảng và sẩn màu đỏ có vẩy trắng bạc. Các thương tổn da có thể rải rác vài tổn thương cho đến lan toả toàn thân. Bệnh thường xuất hiện ở tuổi ngoài 20, có thể gặp ở người lớn tuổi ngoài 50, đôi khi ở trẻ nhỏ dưới 10 tuổi và nếu ở tuổi này thì thường có yếu tố gia đình với biểu hiện bệnh nặng hơn, kéo dài hơn. Tỷ lệ bệnh ở nam và nữ như nhau.
Cơ chế sinh bệnh vảy nến bao gồm yếu tố gen di truyền yếu tố miễn dịch môi trường. Yếu tố di truyền, nếu bố hoặc mẹ bị bệnh thì có khoảng 8% con bị bệnh, nếu cả bố và mẹ bị bệnh thì tới 41% con mắc bệnh. Yếu tố di truyền liên quan đến HLA-B27- B13,-B17, -Bw57 và HLA-Cw6, Psori1... Miễn dịch liên quan đến các tế bào miễn dịch lympho T ở da, đặc biệt là Th1, Th17 và Th22. Các yếu tố môi trường là nhiễm khuẩn, chấn thương, thuốc, thức ăn. Các yếu tố có thể làm bệnh nặng hơn là các sang chấn như gãi, chà sát mạnh. Nhiễm trùng mà thường là nhiễm liên cầu. Các stress tâm lý cũng làm bệnh nặng lên ở trẻ em và người lớn. Thuốc sử dụng như các corticosteroid, lithium, các thuốc chống sốt rét, interferon ... có thể làm cho bệnh nặng lên. Rượu cũng là tác nhân làm cho bệnh nặng lên.
Các thể bệnh vảy nến thường gặp
Vảy nến thể thông thường, gồm vảy nến thể giọt, thể đồng tiền, thể mảng. Vảy nến thể đặc biệt: thể đảo ngược, thể ở lòng bàn chân-bàn tay, thể đỏ da toàn thân vảy nến, thể mủ, vảy nến móng-khớp, viêm đầu chi liên tục, vảy nến niêm mạc. Trong bài viết này chúng tôi chỉ đề cập đến vẩy nến thể thông thường là thể bệnh hay gặp.
Bệnh vảy nến thể thông thường có biểu hiện rất đặc biệt và thường dễ chẩn đoán. Người bệnh có thể tự biết về bệnh của mình. Đó là các sẩn hoặc mảng sẩn màu đỏ tươi hoặc đậm, ranh giới rõ, trên có vảy da màu trắng bạc. Các vảy này bong ra dễ dàng thành từng lá vảy da màu trắng bạc. Khi cạo nhẹ vảy bong ra để lại ở dưới những đốm máu nhỏ. Các sẩn hoặc đám thương tổn nhỏ tụ lại thành mảng lớn. Các thương tổn có thể có ở toàn thân nhưng có một số vị trí rất hay gặp là đầu, ngón tay, bàn tay- bàn chân, đầu gối, khuỷu tay, ụ ngồi, mông và cẳng chân. Một đặc điểm quan trọng của bệnh là thường đối xứng hai bên cơ thể, mặt ít khi bị tổn thương. Một số người bệnh chỉ bị tổn thương ở đầu hoặc bàn tay-bàn chân. Bệnh ở da đầu có đặc điểm là nhiều vảy da bong, không gây rụng tóc nhưng hay ngứa và gây phiền phức cho người bệnh vì vảy da bong liên tục. Trái lại, các thương tổn vảy nến ở kẽ mông, sinh dục thì lại có ít vảy da do vùng da đó ẩm ướt. Móng tay, móng chân bị tổn thương với biểu hiện móng bị tách, móng sùi dễ gãy, có các vết rỗ trên móng. Tổn thương móng trong vảy nến dễ bị chẩn đoán nhầm là nấm móng. Thương tổn móng có thể cùng với thương tổn khớp do vảy nến và cũng là biểu hiện làm cho người bệnh rất ngại ngùng khi giap tiếp. Hơn nữa, nhiều trường hợp gây biến dạng móng và khớp để lại di chứng trầm trọng cho người bệnh. Để chẩn đoán bệnh có thể làm sinh thiết tổ chức da bị bệnh. Trường hợp bệnh xuất hiện đột ngột và nặng có thể do suy giảm miễn dịch trong đó cần xét nghiệm HIV.
Bệnh vảy nến là bệnh da mạn tính. Vảy nến thể giọt là một thể bệnh có thể tự khỏi, tuy nhiên đa số trường hợp tiến triển thành thể mạn tính. Bệnh có thể ổn định trong thời gian dài, nhẹ đi hoặc khỏi rồi lại tái phát và thường sẽ tồn tại với người bệnh cả cuộc đời.
Điều trị thế nào?
Điều trị bệnh cần phải cân nhắc về tuổi, thể bệnh, vị trí thương tổn, diện tích da bị bệnh, các phương pháp và các thuốc đã sử dụng. Người bệnh cần đến bác sĩ chuyên khoa da liễu để chẩn đoán xác định bệnh, cho chỉ định điều trị ban đầu. Trường hợp thương tổn da chỉ chiếm <5% diện tích da cơ thể thì người bệnh có thể điều trị tại y tế cơ sở theo chỉ định ban đầu của bác sĩ chuyên khoa (diện tích da ở người trưởng thành khoảng 1,5-2m2). Các trường hợp khác cần được các bác sĩ chuyên khoa điều trị và theo dõi lâu dài.
Các thuốc bôi tại chỗ có thể dùng điều trị bệnh như: corticosteroid, anthralin, calcipotriol 0,005% (Daivonex và Daivobet), Tazaroten 0,05-0,1% hoặc Tacrolimus, Pimecrolimus. Thày thuốc sẽ chỉ định cụ thể thuốc bôi và cách bôi cho từng trường hợp bệnh, tuỳ theo vị trí thương tổn và sự đáp ứng với các thuốc bôi. Có thể phối hợp các thuốc bôi khi điều trị hoặc thuốc bôi với các thuốc toàn thân. Các thuốc bong vảy da và làm mềm da rất quan trọng và cần phải bôi liên tục, duy trì lâu dài.
Trường hợp người bệnh bị bệnh thể nặng, thương tổn nhiều thì phải phối hợp với thuốc toàn thân. Chúng tôi giới thiệu một số phương pháp điều trị và lưu ý rằng các phương pháp này cần phải được thày thuốc chỉ định, theo dõi và có thể phải thay đổi trong quá trình điều trị.
Trường hợp bệnh cấp tính, thể giọt dùng thuốc kháng sinh chống liên cầu khuẩn, thuốc bôi và có thể điều trị bằng hoá trị liệu, PUVA-uống 8-methoxypsoralen và chiếu tia cực tím UVA. Gần đây điều trị bằng tia UVB dải hẹp rất có hiệu quả điều trị, ít tác dụng phụ hơn. Thuốc uống retinoid loại acitretin và isotretinoin có tác dụng điều trị tốt. Hai thuốc này đều có nguy cơ gây quái thai ở phụ nữ, gây tăng lipit máu và một số tác dụng phụ khác. Do vậy, chỉ định điều trị cần rất thận trọng. Methotrexat là thuốc điều trị hiệu quả bệnh vảy nến nhưng thuốc này có một số tác dụng phụ khi dùng lâu dài độc gan, tuỷ xương và không dùng cho người trẻ tuổi. Cylosporin là thuốc ức chế miễn dịch cũng có hiệu quả điều trị trong một số thể bệnh, Tuy nhiên, thuốc này cũng có một số tác dụng phụ như độc thận, tăng huyết áp, tăng creatinin máu.
Bệnh vảy nến được biết đến cơ chế bệnh sinh liên quan đến vai trò của tế bào miễn dịch lympho T (T lymphocytes) và tế bào đích của bệnh vảy nến là các tế bào sừng của thượng bì nên trị liệu cần tác động vào các tế bào này. Đó là hương nghiên cứu điều trị trong tương lai bệnh vảy nến. Trị liệu sinh học ngày nay đã được sử dụng trong bệnh vảy nến, đó là cuộc cách mạng trong điều trị một số bệnh miễn dịch vì nó tác động đến các thành phần đặc biệt của cơ chế miễn dịch. Thuốc sinh học là những protein dẫn xuất từ nguồn sống (con người, động vật, cây cỏ, vi sinh vật) hoặc tổng hợp thông qua kỹ thuật tái tổ hợp DNA. Tuy nhiên, trị liệu sinh học cần rất thận trọng và có tiêu chuẩn chọn lựa, phải theo dõi công thức máu, chức năng gan, thận, XQ tim phổi.
Điều trị vảy nến có thể theo một phác đồ điều trị đơn độc hoặc phối hợp các phương pháp để tăng hiệu quả điều trị, giảm tác dụng phụ của thuốc. Có thể sử dụng liều tấn công cho bệnh giảm nhanh, sau đó duy trì. Hoặc có thể dùng trị liệu xoay vòng, nghĩa là dùng một phác đồ điều trị trong một thời gian, sau đó có thể chuyển sang các phương pháp điều trị khác, rồi có thể quay lại các phác đồ trước đó.
Vảy nến là một bệnh mạn tính, diễn biến bệnh lâu dài, có thể khỏi một thời gian dài nhưng cũng có nhiều trường hợp tái phát liên tục. Việc điều trị cần phải có sự phối hợp rất chặt chẽ giữa thầy thuốc và người bệnh để có thể tìm ra phương pháp điều trị tối ưu nhất, hiệu quả, ít tác dụng phụ và phù hợp với hoàn cảnh người bệnh về kinh tế, công việc và gia đình, xã hội.
Bệnh vảy nến không chỉ ảnh hưởng đến thẩm mỹ, mà còn ảnh hưởng đến tâm lý người bệnh gây nên một vòng luẩn quẩn bệnh lý. Các tác động đến người bệnh là gây ngứa, hình thức, diện mạo do bệnh gây nên các mảng màu đỏ, có vảy da bong nhiều. Chính vì thế nên làm người bệnh mất tự tin, ảnh hường đến tài chính do phải chi phí cho điều trị, ảnh hưởng đến học tập, công việc, các mối quan hệ xã hội, làm người bệnh đôi khi tức giận, trầm cảm và cảm thấy cô lập. Ngày nay, khoa học hiểu rõ bệnh vảy nên không đơn thuần là bệnh ngoài da mà là bệnh toàn thân, có liên quan với các bệnh lý về tim mạch, gan nhiễm mỡ không do rượu, béo phì và các bệnh lý chuyển hóa.