Các thuốc điều trị bệnh Mụn rộp sinh dục

05-09-2024 09:36 | Tra cứu bệnh

SKĐS - Mụn rộp sinh dục (Herpes sinh dục) hay còn gọi là mụn rộp sinh dục là một trong những bệnh lây nhiễm qua đường tình dục phổ biến do Herpes Simplex virus (HSV) gây ra. Vậy các thuốc điều trị bệnh Herpes sinh dục là gì và có tác dụng như thế nào?

Nhiễm herpes sinh dục nữ và dùng thuốcNhiễm herpes sinh dục nữ và dùng thuốc

Herpes simples virus (HSV) gây ra herpes sinh dục nữ cũng như gây ra các bệnh viêm não, loét giác mạc mắt cho trẻ bị lây nhiễm HSV từ mẹ. Do ngại độc, ngại không an toàn với thai, nhiều người bệnh đã không dùng thuốc sớm, thiếu tích cực và kiên nhẫn nên bệnh hay tái phát, lây nhiễm rộng trong cộng đồng và cho trẻ sơ sinh.

1. Nguyên nhân gây bệnh Mụn rộp sinh dục (Herpes )

Herpes sinh dục là bệnh lây nhiễm qua đường tình dục khá phổ biến ở các quan hệ tình dục không an toàn, với biểu hiện đặc trưng là những vết mụn, loét ở cơ quan sinh dục, hậu môn. Tác nhân gây bệnh chủ yếu là virus HSV.

Sau khi tiếp xúc với nguồn lây, HSV sẽ xâm nhập vào cơ thể và duy trì ở trạng thái không hoạt động tại các hạch thần kinh, rồi từ đó chúng sẽ xuất hiện và gây triệu chứng bệnh Herpes sinh dục từng đợt. Sau khi xâm nhập cơ thể, HSV có thể gây hoặc không gây ra các triệu chứng mụn rộp tại bộ phận sinh dục, nhưng sự lây truyền vẫn diễn ra. Sự lây truyền của HSV có thể do tiếp xúc với các tổn thương hoặc tiếp xúc da với da thường xuyên với bạn tình bị nhiễm virus.

Phụ nữ nhiễm HSV khi mang thai có thể truyền virus cho thai nhi hoặc trẻ sơ sinh. Tuy nhiên, đa số trường hợp HSV sẽ lây truyền cho trẻ sơ sinh trong quá trình chuyển dạ sinh thường do tiếp xúc trực tiếp với dịch tiết âm đạo có chứa virus và rất hiếm khi lây truyền qua nhau thai.

Những bà mẹ nhiễm HSV nguyên phát có nguy cơ lây truyền virus cho trẻ sơ sinh cao hơn so với những bà mẹ nhiễm HSV tái phát. Hầu hết trẻ sơ sinh nhiễm HSV sẽ không biểu hiện triệu chứng ngay lập tức. Điều đặc biệt đáng ngại là trẻ sơ sinh nhiễm virus HSV đa phần rất nghiêm trọng và có khả năng gây tử vong.

Các thuốc điều trị bệnh Mụn rộp sinh dục- Ảnh 2.

Mụn rộp sinh dục (Herpes sinh dục) là bệnh lây nhiễm qua đường tình dục khá phổ biến gây ra các mụn rộp quanh cơ quan sinh dục.

2. Triệu chứng bệnh Mụn rộp sinh dục (Herpes sinh dục)

Các triệu chứng bệnh Herpes sinh dục do nhiễm HSV nguyên phát (lần đầu) và tái phát có một số điểm khác nhau, cụ thể như sau:

- Mụn rộp sinh dục nguyên phát:

Thời gian ủ bệnh khoảng 7 ngày và giai đoạn này đa phần không gây ra bất kỳ triệu chứng nào. Sau giai đoạn ủ bệnh, giai đoạn đầu bệnh nhân có những biểu hiện do nhiễm virus như sốt, đau đầu, mệt mỏi, đau cơ. Một số ít trường hợp, nghiêm trọng hơn là những có dấu hiệu của viêm màng não vô khuẩn. Lưu ý: Những triệu chứng kể trên thường nghiêm trọng nhất trong khoảng 3 - 4 ngày sau khi xuất hiện mụn nước sinh dục, sau đó giảm dần và biến mất sau 3 - 4 ngày tiếp theo.

Triệu chứng Herpes sinh dục tại chỗ tùy theo vị trí tổn thương bao gồm: đau, ngứa, tiểu khó, đau lưng, tiết dịch niệu đạo và/hoặc âm đạo, hậu môn. Biểu hiện đặc trưng của nhiễm Herpes sinh dục là những tổn thương dạng mụn nước tại bộ phận sinh dục với đặc điểm mọc thành chùm, nhanh chóng hóa mủ rồi vỡ ra để lại vết trợt nông, đôi khi bội nhiễm vi khuẩn thành các vết loét. Tổn thương của Herpes sinh dục có thể có vảy tiết và biến mất sau 2 - 4 tuần. Tuy nhiên virus vẫn trú ngụ trong cơ thể.

Kèm theo các tổn thương bộ phận sinh dục, bệnh nhân có hạch vùng bẹn sưng, đau, đôi khi nổi hạch tiểu khung gây đau dữ dội. Một số trường hợp nhiễm có bệnh cảnh lâm sàng nặng, các tổn thương lan rộng và cần có biện điều trị tích cực.

- Mụn rộp sinh dục tái phát:

Trước khi mụn nước xuất hiện, triệu chứng thường gặp là cảm giác ngứa ngáy, bỏng rát và kích thích cơ quan sinh dục rất khó chịu. Các triệu chứng khác kèm theo có thể là tiểu khó, đau thần kinh hông hoặc khó chịu ở trực tràng.Các tổn thương do nhiễm virus HSV tái phát có thể xảy ra ở những vị trí cũ. Tuy nhiên, biểu hiện thường không nghiêm trọng và rõ ràng như nhiễm HSV nguyên phát. Thời gian diễn tiến bệnh của nhiễm HSV tái phát kéo dài khoảng 1-2 tuần.

Biến chứng của bệnh Mụn rộp sinh dục

Bệnh Herpes sinh dục nếu không được điều trị kịp thời có thể gây ra các biến chứng như:

Gia tăng nguy cơ mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục khác như nhiễm HIV/ AIDS.

Nhiễm trùng sơ sinh. Trẻ sinh ra từ những bà mẹ bị nhiễm bệnh, có thể lây nhiễm với virus trong quá trình sinh đẻ, dẫn đến tổn thương não, mù lòa hoặc tử vong cho trẻ sơ sinh.

Viêm đường tiết niệu: viêm bàng quang, viêm niệu đạo…

3. Điều trị bệnh Mụn rộp sinh dục

3.1.Chẩn đoán bệnh Mụn rộp sinh dục

Virus HSV thường có 2 nhóm: HSV-1 thường gây bệnh ở da, niêm mạc phần trên của cơ thể như mắt, mũi, miệng, môi. Nhóm HSV-2 gây bệnh ở da niêm mạc đường sinh dục.

Cách phân chia này chỉ có tính tương đối, vì trong các bệnh về đường sinh dục người ta cũng có thấy sự có mặt HSV-1 và trong những bệnh ở ngoài đường sinh dục người ta cũng thấy có HSV-2.

Chẩn đoán bệnh mụn rộp sinh dục thường cần kết hợp giữa triệu chứng lâm sàng và xét nghiệm để phân biệt rõ hai nhóm virus. Các tổn thương mụn nước do virus HSV gây ra khá đặc trưng và dễ nhận biết, tuy nhiên cần lưu ý là một số ít trường hợp nhiễm bệnh có những dấu hiệu bất thường như phát ban dạng phỏng nước hoặc loét trên nền ban đỏ. Khi đó các xét nghiệm xác định nhiễm HSV nên được thực hiện nếu dấu hiệu lâm sàng không rõ ràng.

Các xét nghiệm được sử dụng để chẩn đoán, sàng lọc virus HSV gồm:

Xét nghiệm PCR: Đây là xét nghiệm chẩn đoán Herpes sinh dục được sử dụng phổ biến và cho kết quả chính xác. Xét nghiệm này tìm kiếm các đoạn DNA của virus trong một mẫu tế bào, chất dịch từ vết loét ở bộ phận sinh dục hoặc quanh hậu môn. Xét nghiệm PCR cho biết sự hiện diện của virus HSV ngay cả khi người bệnh không có triệu chứng.

Nuôi cấy tế bào: Mẫu bệnh phẩm là một mẫu tế bào từ vết loét và tìm virus HSV dưới kính hiển vi.

Nuôi cấy tế bào hoặc xét nghiệm PCR có thể cho kết quả âm tính giả nếu vết loét đã bắt đầu lành hoặc người bệnh mới nhiễm virus HSV. Nếu người bệnh có kết quả dương tính nhưng có ít nguy cơ nhiễm virus HSV thì cần xét nghiệm thêm.

Xét nghiệm máu: Giúp phát hiện các kháng thể HSV, là các protein được tạo ra bởi hệ thống miễn dịch để đáp ứng với nhiễm trùng. Trong xét nghiệm này, một dung dịch chứa kháng thể HSV và thuốc nhuộm huỳnh quang được thêm vào mẫu tế bào. Nếu có virus trong mẫu, các kháng thể sẽ dính vào virus và phát sáng khi quan sát dưới kính hiển vi đặc biệt.

Các thuốc điều trị bệnh Mụn rộp sinh dục- Ảnh 3.

Cần tuân thủ chỉ định của bác sĩ khi dùng thuốc điều trị Herpes sinh dục. (ảnh minh họa)

3.2. Cách điều trị Mụn rộp sinh dục

- Nguyên tắc điều trị Mụn rộp sinh dục

Điều trị bệnh Herpes sinh dục cần tuân thủ nguyên tắc chung là:

  • Chống bội nhiễm bằng các thuốc điều trị tại chỗ.
  • Sử dụng thuốc kháng virus đường toàn thân để kiểm soát các triệu chứng, đồng thời hạn chế bài xuất HSV.

- Cách sử dụng thuốc điều trị Mụn rộp sinh dục

Điều trị tại chỗ: Sử dụng dung dịch sát khuẩn như betadine, milian hoặc kem bôi có thành phần acyclovir kháng virus ngay khi xuất hiện các mụn nước sinh dục. Nên bôi càng sớm càng tốt và đa phần chỉ mang lại hiệu quả với các trường hợp nhẹ.

Điều trị toàn thân: Hiện có 3 loại thuốc được chấp nhận dùng điều trị nhiễm Herpes theo đường toàn thân là: aciclovir, valaciclovir và famciclovir. Liều dùng các thuốc này do bác sĩ chỉ định cho từng trường hợp và giai đoạn bệnh.

Nếu có bội nhiễm (có sốt, xét nghiệm bạch cầu tăng, nhuộm soi dịch tiết có vi khuẩn...) thì uống hoặc tiêm kháng sinh kết hợp với thuốc kháng virus. Nếu tổn thương đau nhiều thì nên kết hợp với thuốc giảm đau.

Việc sử dụng thuốc điều trị Herpes sinh dục là nhằm mục đích:

  • Rút ngắn thời gian và độ nghiêm trọng khi bệnh bùng phát.
  • Giảm số lần tái phát bệnh.
  • Ngăn ngừa nguy cơ bùng phát bệnh trong suốt một thời gian dài.
  • Giảm nguy cơ lây lan bệnh cho người khác.

4. Lưu ý khi dùng các thuốc kháng virus trong điều trị bệnh Herpes

Thuốc kháng virus (acyclovir, famciclovir, valacyclovir..) là các thuốc được sử dụng chủ yếu trong điều trị bệnh Herpes, do có tác dụng ngăn chặn sự phát triển của virus HSV:

Acyclovir là thuốc kháng virus thường được lựa chọn đầu tiên trong điều trị bệnh Herpes.

Famciclovir, valacyclovir...là những thuốc kháng virus có tác động kéo dài hơn so với acyclovir.

Thuốc kháng virus thường được trình bày ở các dạng:

  • Thuốc viên hay hỗn dịch dùng qua đường uống.
  • Thuốc bột đông khô dùng qua đường tiêm truyền tĩnh mạch.
  • Thuốc kem và thuốc mỡ dùng ngoài da.
  • Thuốc mỡ tra mắt.

Tác dụng:

Thuốc kháng virus tác động chọn lọc trên những tế bào bị nhiễm, ngăn chặn sự phát triển và lây lan của virus HSV. Các thuốc này ức chế tổng hợp ADN và sự nhân lên của virus, mà không ảnh hưởng đến chuyển hóa của các tế bào bình thường.

Thuốc kháng virus mang lại hiệu quả cao trong điều trị bệnh mụn rộp sinh dục do HSV gây ra, đặc biệt là giai đoạn đầu bệnh khởi phát.

Tác dụng phụ:

Các thuốc kháng virus có thể gây ra một số tác dụng phụ: Buồn nôn, nôn; Sốt; Nhức đầu; Đau bụng, tiêu chảy; Xuất huyết dưới da…

5. Điều cần biết trong quá trình điều trị bệnh Mụn rộp sinh dục (Herpes)

Điều trị HSV- 1 cần lưu ý:

Thuốc dùng toàn thân: các kháng sinh acyclovir, valacyclovir, famciclovir. Thuốc bôi tại chỗ: acyclovir (cream 5%).

Nguyên tắc là dùng thuốc toàn thân hoặc tại chỗ càng sớm càng tốt. Tùy theo giai đoạn bệnh mà liều lượng thuốc toàn thân có thay đổi. Riêng thuốc tại chỗ chỉ bôi khi bắt đầu có triệu chứng báo hiệu hay có thương tổn đầu tiên. Thường cách 4 - 5 giờ bôi một lần và nên bôi trong 5 - 10 ngày.

Súc miệng bằng nước muối pha loãng để làm sạch làm êm dịu vết thương.

Trong điều trị HSV-2 cần lưu ý một số điểm sau:

Thường dùng acyclovir dạng uống là chủ yếu, dạng tiêm chỉ dùng cho những người có bệnh trầm trọng, dạng dùng ngoài hầu như không cải thiện đáng kể tình trạng bệnh. Tùy trường hợp mà cách dùng acyclovir có thay đổi.

Các lưu ý khác:

Nhìn chung việc điều trị mụn rộp sinh dục (Herpes sinh dục) muốn đạt hiệu quả cao thì phải được tiến hành càng sớm càng tốt và đòi hỏi người bệnh phải hết sức kiên trì. Mặc dù đến nay vẫn chưa có thuốc điều trị bệnh mụn rộp sinh dục (Herpes sinh dục) đặc hiệu nhưng các thuốc hiện tại vẫn hỗ trợ giảm triệu chứng và hạn chế tối đa nguy cơ lây lan virus cho chính người bệnh và những người xung quanh.

Đối với phụ nữ có thai và đang cho con bú, việc sử dụng thuốc kháng virus phải hết sức thận trọng, trong trường hợp bắt buộc sử dụng phải được sự theo dõi chặt chẽ của thầy thuốc.

Các thuốc kháng virus là những thuốc kê đơn và có thể gây ra các tác dụng phụ, nên người bệnh cần tuyệt đối tuân theo chỉ định của thầy thuốc.


DS. Nguyễn Thanh Huyền
dược sĩ
Ý kiến của bạn