Ung thư tuyến tiền liệt là khối u ác tính xuất phát từ tế bào biểu mô của tuyến tiền liệt. Ung thư tuyến tiền liệt thường di căn sang các bộ phận khác của cơ thể, đặc biệt là vào xương và các hạch bạch huyết…
Theo PGS. TS. Phạm Cẩm Phương - Giám đốc Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu, Bệnh viện Bạch Mai, các phương pháp điều trị bệnh ung thư tuyến tiền liệt hiện nay, bao gồm:
- Phẫu thuật (phẫu thuật mở, nội soi), cắt lạnh.
- Nội tiết (cắt bỏ tinh hoàn bằng phẫu thuật hoặc bằng thuốc).
- Hóa chất
- Xạ trị (xạ chiếu ngoài, xạ áp sát).
- Cấy hạt phóng xạ
Tùy theo phân độ nguy cơ và tình trạng bệnh nhân cụ thể, điều kiện cơ sở vật chất của bệnh viện mà áp dụng một hoặc phối hợp các phương pháp trên.
1. Phẫu thuật điều trị ung thư tuyến tiền liệt
Phẫu thuật mở là phương pháp kinh điển cho điều trị ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn khu trú với nhiều loại hình như:
- Phẫu thuật (mở) cắt tuyến tiền liệt tận gốc
- Phẫu thuật cắt tuyến tiền liệt tận gốc qua đường đáy chậu
- Phẫu thuật nội soi cắt tuyến tiền liệt tận gốc qua đường phúc mạc
- Phẫu thuật nội soi cắt tuyến tiền liệt tận gốc qua đường sau phúc mạc
- Phẫu thuật cắt tuyến tiền liệt tận gốc có hỗ trợ của rôbốt
Chỉ định phẫu thuật trong ung thư tuyến tiền liệt:
- Căn cứ vào giai đoạn tiến triển của ung thư theo hệ thống TNM
- Theo độ ác tính của tế bào ung thư là điểm Gleason
- Theo thời gian kỳ vọng sống thêm
- Theo tình trạng của các bệnh kèm theo của người cao tuổi
Tuy nhiên phẫu thuật ung thư tiền liệt tuyến là kỹ thuật phức tạp và có thể có một số biến chứng trong phẫu thuật ung thư tuyến tiền liệt như:
- Thủng trực tràng
- Viêm phúc mạc do rò phân, rò nước tiểu vào ổ bụng
- Liệt dương
- Tiểu không kiểm soát
- Hẹp cổ bàng quang
- Tụ dịch bạch huyết, thuyên tắc tĩnh mạch….
2. Phương pháp xạ trị
Là phương pháp dùng tia bức xạ chiếu từ ngoài vào vùng bệnh hoặc nguy cơ bị bệnh. Xạ trị là phương pháp điều trị tại vùng có thể điều trị với mục đích triệt căn hoặc triệu chứng, áp dụng điều trị tùy thuộc giai đoạn bệnh, nhóm nguy cơ, tình trạng bệnh nhân, bệnh phối hợp, thời gian sống thêm và chức năng tình dục, cũng như nguyện vọng của bệnh nhân.
Xạ trị có thể phối hợp với các phương pháp khác như nội tiết… Các kỹ thuật xạ trị hiện nay bao gồm: kỹ thuật xạ trị 3D, xạ trị điều biến liều IMRT, xạ trị dưới hướng dẫn của hình ảnh IGRT, xạ trị điều biến thể tích VMAT góp phần tăng hiệu quả điều trị hơn.
3. Điều trị nội tiết
Là phương pháp dùng những thuốc chống lại sự hoạt động của androgen và sự tăng sinh của tuyến tiền liệt, bao gồm nội tiết tố và và những chất không phải nội tiết tố. Ung thư tuyến tiền liệt được cho là phát triển phụ thuộc nội tiết tố nam, do vậy làm giảm hoặc triệt tiêu nội tiết nam sẽ làm các tế bào ung thư phụ thuộc nội tiết chết.
Các dạng điều trị nội tiết bao gồm: Cắt tinh hoàn bằng ngoại khoa và bằng nội khoa như các đồng vận LHRH tạo hiện tượng mất hoạt hóa thụ thể LHRH của tuyến yên. Các chất kháng nội tiết tố nam hoặc ức chế tổng hợp nội tiết tố.
Điều trị nội tiết được chỉ định chính cho ung thư tiền liệt tuyến di căn và phối hợp với các phương pháp khác (xạ trị, phẫu thuật) cho các trường hợp ung thư khu trú có nguy cơ cao và trung bình.
Việc theo dõi nên điều chỉnh cho phù hợp với từng bệnh nhân và đánh giá hiệu quả cũng như tác dụng phụ khi điều trị nội tiết. cũng có thể áp dụng phương pháp điều trị nội tiết ngắt quãng để giảm tác dụng phụ tăng chất lượng sống cho người bệnh.
4. Điều trị ung thư tuyến tiền liệt kháng cắt tinh hoàn
Bệnh nhân khi đang được điều trị bằng các biện pháp kháng androgen mà có các biểu hiện bệnh tiến triển (tăng PSA, tiến triển tổn thương cũ, phát triển tổn thương mới) được xem là kháng cắt tinh hoàn. Cơ chế liên quan đến tình trạng này có thể do hoạt hóa thụ thể androgen của tế bào u tự tiết androgen, dựa vào các triệu chứng lâm sàng và xét nghiệm (PSA, testosterone), hình ảnh để xác định ung thư tuyến tiền liệt kháng cắt tinh hoàn.
Ung thư tuyến tiền liệt có diễn tiến kéo dài nên ngay cả các trường hợp kháng cắt tinh hoàn vẫn có cơ hội sống dài và tốt nhờ chiến lược điều trị đúng. Các thuốc đã được chấp nhận điều trị như nhóm thuốc nội tiết (abiraterone, enzalutamine), thuốc gây độc tế bào (Docetaxel, Mitoxatron, Cabazitaxel), thuốc kích thích miễn dịch (Sipuleucel –T), dược chất phóng xạ radium 233, thuốc chống hủy xương (zoledrolic acid, denosunab).
5. Phương pháp cấy hạt phóng xạ
Kỹ thuật cấy hạt phóng xạ vào khối u để điều trị ung thư tuyến tiền liệt, là sự cải tiến của xạ trị áp sát kết hợp với xạ trị chiếu trong đã được nhiều nước trên thế giới nghiên cứu áp dụng và đem lại nhiều lợi ích to lớn cho bệnh nhân.
Hiện nay tại các nước phát triển như Hoa Kỳ, Đức, Nhật Bản…, áp dụng cho ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn sớm, khu trú.
Cấy hạt phóng xạ điều trị ung thư tuyến tiền liệt là phương pháp xạ trị đưa các hạt phóng xạ I-125 kích thước nhỏ 4,5x0,8 mm phát tia gamma năng lượng thấp (35 keV), vào trong tổ chức khối u, có tác dụng tiêu diệt tế bào ung thư tại chỗ mà không hoặc ảnh hưởng rất ít tới mô lành xung quanh. Bức xạ gamma mềm của I-125 chỉ phát huy hiệu quả điều trị trong phạm vi vài milimet (mm) của các mô bệnh và không hoặc rất ít gây tổn thương các mô lành xung quanh.
Ưu điểm nổi bật của kỹ thuật này là tạo ra liều hấp thụ bức xạ cao tại khối u, trong khi cơ quan và tế bào lành chỉ phải chịu liều bức xạ rất thấp. Các hạt phóng xạ có thời gian bán rã không quá ngắn và không quá dài (chẳng hạn với I-125 là 60 ngày) nên có thể để lại các hạt phóng xạ trong lòng tuyến tiền liệt mà không cần lấy ra sau khi cấy hạt phóng xạ vào.
Dưới hướng dẫn của hình ảnh siêu âm, các kim chứa hạt phóng xạ này sẽ được đâm xuyên qua da ở vùng tầng sinh môn để đưa thẳng vào trong lòng của tuyến tiền liệt. Các hạt I-125 sẽ được lưu lại trong lòng tuyến tiền liệt sau khi kim được rút ra.
Ưu điểm của phương pháp cấy hạt phóng xạ là kiểm soát u tại chỗ cao, thời gian và liệu trình điều trị ngắn, ít biến chứng, chức năng sinh lý của nam giới (liệt dương) ít hoặc không bị ảnh hưởng, tăng chất lượng cuộc sống.
Cấy hạt phóng xạ là một phương pháp điều trị an toàn, hiệu quả, tăng thời gian sống thêm, tăng chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn sớm.