Bệnh tăng huyết áp (THA) đã trở thành một căn bệnh phổ biến và có tỉ lệ người mắc cao nhất trong nhóm bệnh không lây nhiễm. Việc phát hiện, điều trị sớm và đúng cách không chỉ góp phần làm giảm các biến chứng do bệnh gây ra mà còn giúp kéo dài tuổi thọ, nâng cao chất lượng sống cho bệnh nhân.
Có rất nhiều loại thuốc được dùng để điều trị THA, tuy nhiên mỗi loại thuốc đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng. Dưới đây là một số nhóm thuốc đầu tay được khuyến cáo sử dụng cho bệnh nhân THA.
Thuốc điều trị tăng huyết áp có thể gây tác dụng phụ, người bệnh dùng thuốc cần có sự tư vấn của bác sĩ chuyên khoa.
Nhóm thuốc chẹn bêta giao cảm
Đây là nhóm thuốc có tác dụng lên hệ thần kinh giao cảm, đã được chứng minh làm giảm tỷ lệ tai biến mạch máu não và giảm nhồi máu cơ tim. Thuốc có tác dụng tốt trong các trường hợp đau thắt ngực, sau nhồi máu cơ tim, loạn nhịp tim và suy tim. Nhóm thuốc này cũng là một trong các thuốc phổ biến trong phòng ngừa và điều trị bệnh tim mạch. Chẹn bêta cũng là thuốc thường quy trong điều trị bệnh động mạch vành mạn và hội chứng động mạch vành cấp. Một số thuốc của nhóm này hay được sử dụng đó là: atenolon, bisoprolol, metoprolol, propranolol.
Tác dụng phụ thường gặp là suy nhược và mỏi cơ, tim đập chậm, đau đầu, lạnh chi, liệt dương, rối loạn tiêu hóa, làm tăng LDL-cholesteron và triglycerid. Hơn nữa, thuốc còn che giấu các dấu hiệu của hạ đường huyết. Ngoài ra, việc ngưng đột ngột sử dụng thuốc có thể dẫn đến hội chứng cai thuốc.
Thuốc chẹn kênh calci
Thuốc hạ huyết áp nhóm chẹn kệnh calci vẫn là một trong những nhóm thuốc được dùng phổ biến với những ưu điểm của nó. Thuốc được chỉ định rộng rãi, ít chống chỉ định, đặc biệt không có những tác dụng không mong muốn nguy hiểm, do vậy đây là nhóm thuốc điều trị THA an toàn (nhóm DHP). Các thuốc thuộc nhóm này có thể làm giảm 10-20% chỉ số huyết áp, mang lại hiệu quả tương đương với các nhóm thuốc khác. Một số thuốc trong nhóm này hay sử dụng đó là nifedipin, amlodipine,...
Thuốc có tác dụng làm giãn mạch mạnh do đó có thể là nguyên nhân của chứng đau đầu, đỏ bừng mặt, đánh trống ngực. Ngoài ra, thuốc còn gây phù chi dưới và việc sử dụng thuốc ở phụ nữ có thai vẫn còn đang tranh cãi.
Nhóm thuốc ức chế men chuyển
Thuốc ức chế men chuyển là thuốc được chỉ định rộng rãi nhất cho việc điều trị các bệnh lý về tim mạch. Do thuốc ức chế men chuyển có thể làm giãn các mạch máu nên thuốc được dùng để điều trị cho bệnh nhân THA. Trên lâm sàng, người ta có thể sử dụng đơn độc thuốc này để điều trị THA và có thể phối hợp thuốc này với các thuốc điều trị THA khác.
Thuốc có một số tác dụng phụ do thuốc có khả năng làm hạ huyết áp nên cũng có thể làm huyết áp quá thấp, gây ra những triệu chứng như chóng mặt, choáng váng; nhưng do thuốc ức chế men chuyển chỉ hạ huyết áp ở mức độ vừa phải nên thực ra những triệu chứng này rất ít gặp, đặc biệt là khi ta dùng thuốc ức chế men chuyển liều thấp lúc đầu. Thuốc cũng có thể gây quái thai, do đó phụ nữ có thai không nên dùng. Phụ nữ cho con bú cũng không nên dùng loại thuốc này.
Một số thuốc của nhóm này đó là: captopril, enalaprin, perindoprin (coversyl)...
Nhóm thuốc lợi tiểu thiazid
Là một trong ba nhóm thuốc lợi tiểu: lợi tiểu quai, lợi tiểu thiazid và lợi tiểu giữ kali. Nhóm thuốc này có tác dụng làm giảm khối lượng tuần hoàn, qua đó có tác dụng hạ huyết áp. Một số thuốc lợi tiểu thiazide như hydrochloro thiazide, indapamide, chlortalidone được sử dụng cho bệnh nhân mắc bệnh tăng huyết áp.
Lợi tiểu thiazide đã được chứng minh có tác dụng làm giảm huyết áp, nguy cơ bệnh tim mạch và tỉ lệ tử vong. Là thuốc được lựa chọn hàng đầu để phối hợp với các thuốc hạ áp khác. Bên cạnh tác dụng chính, nhóm thuốc lợi tiểu thiazid cũng có những tác dụng phụ cần quan tâm khác đó là hay gặp tình trạng giảm kali máu, giảm natri máu hiếm khi nghiêm trọng, tăng acid uric máu, tăng cholesteron và triglyceride, kháng insulin và không dung nạp glucose đều có thể xảy ra.
Hiện nay có rất nhiều các nhóm thuốc hạ huyết áp được tìm ra và áp dụng sử dụng, tuy nhiên mỗi loại thuốc đều có những tác dụng phụ riêng. Việc sử dụng từng loại thuốc hay kết hợp giữa các nhóm thuốc với nhau phải phụ thuộc vào từng tình trạng, giai đoạn của bệnh nhân và phải có sự giám sát chặt chẽ của bác sĩ điều trị. Ðối với người bệnh bị tăng huyết áp, phải tuyệt đối tuân thủ phác đồ điều trị sử dụng thuốc cũng như những lời khuyên của bác sĩ, tuyệt đối không được tự ý bỏ thuốc sau một thời gian vì thấy huyết áp của bản thân đã trở lại bình thường. Nếu cảm thấy những khó chịu do tác dụng phụ của thuốc mang lại thì cần trao đổi với bác sĩ để được đổi thuốc, tuyệt đối không tự ý dừng uống thuốc bởi việc làm này sẽ mang lại những nguy hiểm khôn lường cho người bệnh.
BS. Vũ Dũng