Phụ cấp xăng xe, khen thưởng không tính vào tiền lương đóng BHXH
Cụ thể, Thông tư 59/2015/TT-BLĐTBXH quy định tiền lương và các khoản phụ cấp tính đóng BHXH bắt buộc người lao động phải đóng từ 1/1/2016 đến hết năm 2017. Các loại phụ cấp trên bao gồm: phụ cấp chức vụ, chức danh; phụ cấp trách nhiệm; phụ cấp nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; phụ cấp thâm niên; phụ cấp khu vực; phụ cấp lưu động; phụ cấp thu hút và các phụ cấp có tính chất tương tự.
Đây chủ yếu là các khoản bù đắp về điều kiện lao động, tính chất phức tạp của công việc, điều kiện sinh hoạt, mức độ thu hút lao động mà mức lương thỏa thuận trong hợp đồng lao động chưa được tính đến hoặc tính chưa đầy đủ.
Từ 1/1/2018 trở đi, người lao động đóng BHXH dựa trên mức lương, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác ghi trong hợp đồng. Các khoản bổ sung khác là khoản tiền cụ thể mà chủ doanh nghiệp trả thường xuyên mỗi kỳ lương cùng với lương thỏa thuận trong hợp đồng.
Về vấn đề này, bà Trần Thị Thúy Nga - Vụ trưởng Vụ Bảo hiểm xã hội, Bộ LĐTB&XH, điểm lưu ý của quy định cho thấy, tiền lương tháng đóng BHXH bắt buộc không bao gồm các khoản chế độ và phúc lợi khác, như tiền thưởng theo quy định tại Điều 103 của Bộ luật Lao động, tiền thưởng sáng kiến, tiền ăn giữa ca, các khoản hỗ trợ xăng xe, điện thoại, đi lại, tiền nhà ở, tiền giữ trẻ, nuôi con nhỏ, hỗ trợ khi người lao động có thân nhân bị chết, người lao động có người thân kết hôn, sinh nhật của người lao động, trợ cấp cho người lao động gặp hoàn cảnh khó khăn khi bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và các khoản hỗ trợ, trợ cấp khác ghi thành mục riêng trong hợp đồng lao động theo Khoản 11, Điều 4 của Nghị định số 05/2015/NĐ-CP ngày 12/1/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội dung của Bộ luật Lao động.
Theo bà Trần Thị Thúy Nga, đây chủ yếu là các phụ cấp “đầu vào”, hầu như không biến động. Việc xác định các khoản phụ cấp này đều được tính toán kỹ cùng các chuyên gia, không gây thâm hụt nhiều đến thu nhập người lao động và xáo trộn lớn đến chi phí doanh nghiệp. Sở dĩ không chọn các khoản “đầu ra” bởi đó là các khoản không ổn định, phụ thuộc vào hiệu quả kinh doanh, quá trình làm việc của người lao động. Đây cũng là cách để các nhà làm luật chia sẻ khó khăn với doanh nghiệp lẫn người lao động hiện nay.
Người lao động ngừng việc vẫn hưởng lương, đóng BHXH bắt buộc theo mức lương được hưởng
Đặc biệt, Thông tư này cũng quy định tiền lương tháng đóng BHXH đối với người quản lý doanh nghiệp có hưởng tiền lương quy định tại Điểm đ, Khoản 1, Điều 2 của Nghị định số 115/2015/TT-BLĐTBXH là tiền lương do doanh nghiệp quyết định, trừ viên chức quản lý chuyên trách trong công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu.
Tiền lương tháng đóng BHXH đối với người quản lý điều hành hợp tác xã có hưởng tiền lương quy định tại Điểm đ, Khoản 1, Điều 2 của Nghị định số 115/2015/NĐ-CP là tiền lương do đại hội thành viên quyết định.
Tiền lương tháng đóng BHXH đối với người đại diện phần vốn Nhà nước không chuyên trách tại các tập đoàn kinh tế, tổng công ty, công ty Nhà nước sau cổ phần hóa; công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên (sau đây được viết là tập đoàn, tổng công ty, công ty) là tiền lương theo chế độ tiền lương của cơ quan, tổ chức đang công tác trước khi được cử làm đại diện phần vốn Nhà nước.
Tiền lương tháng đóng BHXH đối với người đại diện phần vốn Nhà nước chuyên trách tại các tập đoàn, tổng công ty, công ty là tiền lương theo chế độ tiền lương do tập đoàn, tổng công ty, công ty quyết định.
Thông tư 59/2015/TT-BLĐTBXH cũng quy định: Trong thời gian người lao động ngừng việc theo quy định của pháp luật về lao động mà vẫn được hưởng tiền lương thì người lao động và người sử dụng lao động thực hiện đóng BHXH bắt buộc theo mức tiền lương người lao động được hưởng trong thời gian ngừng việc. Theo Luật BHXH sửa đổi 2014, kể từ ngày 1/1/2016, tỉ lệ đóng BHXH bắt buộc năm 2016 không thay đổi. Cụ thể, người lao động đóng mức 8%, người sử dụng lao động đóng mức 18% tiền lương tháng đóng BHXH.