Cá chạch. |
Cá chạch suối (Noemacheilus pulches) cũng được sử dụng.
Bộ phận dùng làm thuốc của cá chạch là thịt. Trong 100g thịt cá có 9,6g protid, 3,7g lipid, 2,5g carbohydrat, 28mg Ca, 72mg phosphor, 0,9mg sắt; các vitamin A, B1, B2 và acid nicotinic.
Trong y học cổ truyền và kinh nghiệm dân gian, cá chạch được dùng với tên thuốc là thu ngư hay du ngư, nê thu. Sách Dược tính chỉ nam ghi: thu ngư rang hay nấu đều ăn rất ngon, nấu với bột gạo thành cháo mà ăn có tác dụng điều trung, ích khí, chữa được chứng trĩ, lại giải được chứng háo khát và làm cho những người say rượu tỉnh ngay.
Tuệ Tĩnh (Nam dược thần hiệu) và Hải Thượng Lãn Ông (Lĩnh nam bản thảo) cũng ghi dược liệu thu ngư (cá chạch) có vị ngọt, tính bình, không độc, có tác dụng mạnh dương, bổ khí huyết, tiêu khát, giải rượu, sát khuẩn, chữa nóng trong, khát nước, liệt dương, viêm gan, trĩ, ghẻ lở.
Dạng dùng thông thường là thức ăn - vị thuốc được chế biến như sau: làm sạch cá, rửa cho hết nhớt, cắt bỏ đầu và đuôi, chặt từng khúc rồi nấu cháo hoặc làm canh ăn đều hằng ngày. Có thể đem cá sấy khô, tán bột, ngày uống 3 lần, mỗi lần 10g với nước ấm.
DS. Hữu Bảo