Chúng tôi biết khi tập kết ra Bắc, chúng ta có để lại một số cán bộ để nắm dân chờ thời cơ. Địch hiểu được kế hoạch này của ta nên Mỹ - Diệm đã thực hiện một âm mưu nham hiểm là xây dựng ấp chiến lược để cắt đứt quan hệ của cán bộ Cộng sản với nhân dân. Các chiến sĩ bám trụ của chúng ta bị đẩy lên rừng.
Khi chúng tôi vào miền Nam, đúng là khung cảnh dân bị dồn vào ấp chiến lược. Xung quanh ấp chiến lược bị rào mấy lớp dây thép gai. Trước cổng ấp là một trung đội dân vệ canh gác. Sáng có kẻng dân mới được ra khỏi ấp đi làm, đi chợ. Tối có kẻng dân phải vào ấp chiến lược ngay. Nhiều đêm đứng bên ngoài ấp chiến lược, chúng tôi rùng mình.
Một câu hỏi đặt ra cho chúng tôi là: Mặt trận dân tộc giải phóng đã được thành lập, vậy chúng ta phải làm thế nào để xây dựng lực lượng du kích dân quân để hoạt động theo cương lĩnh của Mặt trận dân tộc giải phóng?
Câu trả lời được xác định là: muốn có dân quân, du kích, việc đầu tiên của chúng ta là phải có dân.
Để có dân một cách nhanh chóng, chúng tôi tìm gặp cán bộ cách mạng thoát ly của ấp đó, rồi cùng về giấu mình trong ruộng hoa màu, trong ruộng lúa của dân. Vào thời điểm thích hợp nhất, chúng tôi bí mật xuất hiện. Cơ sở gặp người quen nên không xa lạ. Chúng tôi bí mật ngồi nói chuyện với nhau.
Địa đạo Vĩnh Linh năm 1965. Ảnh: TL |
Khi đã nắm chắc một số cơ sở trong ấp, cơ sở trinh sát ban tối, rồi thắp đèn tín hiệu, nhận được tín hiệu an toàn, chúng tôi luồn qua rào thép gai, vào ấp. Cơ sở bí mật dẫn chúng tôi gặp cơ sở mới. Điều rất may cho chúng tôi là lòng yêu nước của dân dù bị đòn roi mấy, bom đạn mấy vẫn không suy chuyển, vẫn hướng về Cách mạng. Đúng như Bác Hồ dạy: “Không có dân liệu chúng ta làm được gì”.
Có dân rồi, chúng tôi bắt đầu vận động nhân dân cho con vào du kích mật. Là du kích mật, nhưng các anh chị vẫn sống hợp pháp. Du kích giúp chúng tôi tiếp tục phát triển du kích trong ấp. Khi đã thấy lực lượng đủ mạnh, du kích nắm chắc tình hình, việc đầu tiên là tiêu diệt ấp trưởng để chúng bị khủng hoảng trong việc làm đầu cầu nối với chính quyền quận huyện. Sau đó là một đêm quyết định: đập tan trung đội phòng vệ của ấp. Cuộc “đập tan” này hầu như không dùng súng đạn. Chúng tôi đã có “tay trong” trong trung đội dân vệ, cho nên chỉ làm một cuộc binh biến, đội trưởng trung đội dân vệ “đầu hàng” và biến trung đội dân vệ thành trung đội du kích. Ngay trong đêm ấy, dân làng cùng nhau phá tan hàng rào thép gai xung quanh ấp.
Ấp chiến lược trở thành địa bàn du kích của Mặt trận dân tộc giải phóng. Dân quân du kích trong ấp chiến lược trở thành một lực lượng hùng hậu. Nhiều người tham gia quân giải phóng. Nhiều người trong đội ngũ du kích thoát ly, làm hầm bí mật bám trụ ngay trên quê hương của mình, số đông nam nữ du kích, dân quân vẫn sống hợp pháp. Đêm là du kích, đi hoạt động là du kích, song ngày ngày vẫn là người dân đi cày, đi cuốc bình thường.
Chúng tôi đã đi xây dựng vùng giải phóng như vậy. Có vùng ngoài vùng kiểm soát của địch là vùng giải phóng. Du kích dân quân được trang bị vũ khí đánh địch khi chúng về làng hoặc đi càn quét. Còn vùng giải phóng ban ngày địch kiểm soát, ban đêm hoàn toàn của ta là vùng giải phóng đang chờ thời cơ, tuy vậy, lực lượng du kích dân quân rất mạnh, nắm chắc tình hình địch và khi cần chiến đấu thì không ngại ngần giương súng lên ngay.
Ở đâu có dân quân du kích thì người dân ở đó coi quê hương mình là vùng giải phóng và coi mình là người của Mặt trận giải phóng.
Trong vùng tranh chấp thì các cơ sở thi nhau làm hầm bí mật để nuôi cán bộ nằm vùng bám trụ để cán bộ từng bước giúp nhân dân thoát khỏi cảnh kìm kẹp của địch, đồng thời xây dựng lực lượng dân quân du kích của mình ngày một mạnh lên.
Địch ghét dân quân, du kích, nhiều khi bắt được du kích, chúng trả thù một cách rất dã man chính vì dân quân du kích đã làm chúng nhiều phen điên đảo.
Chính có lực lượng dân quân du kích này, có những vùng giải phóng ngay dưới đồng bằng, trong tầm đạn của địch nhưng chúng đành bó tay.
Là người trong cuộc, nhìn lại quá trình đi của Cách mạng miền Nam, quân giải phóng miền Nam là một lực lượng hùng hậu, nhưng phải khẳng định rằng dân quân du kích quả là một bức tường thép của cách mạng.
Nguyễn Quang Hà