Bốn mùa hoa – Bốn mùa thơ

14-03-2011 15:07 | Văn hóa – Giải trí
google news

Xét ở một khía cạnh nào đó Makoto Õoka là một người vĩ đại, như GS. Kenji Tomita đã viết: “Cùng với sự chuyển mình của bốn mùa, trong suốt 29 năm, ông đã miệt mài đăng bài trên trang nhất báo ra hàng ngày... Ông đã hoàn thành sự nghiệp vĩ đại của một người đi trước”.

Xét ở một khía cạnh nào đó Makoto Õoka là một người vĩ đại, như GS. Kenji Tomita đã viết: “Cùng với sự chuyển mình của bốn mùa, trong suốt 29 năm, ông đã miệt mài đăng bài trên trang nhất báo ra hàng ngày... Ông đã hoàn thành sự nghiệp vĩ đại của một người đi trước”. Chúng ta thử tưởng tượng, một năm có 365 ngày nhân với 29 năm, vậy chi là 10.585 ngày, cũng có nghĩa là có ngần ấy bài thơ được đăng tải liên tục trên trang nhất một tờ báo lớn của Nhật Bản Asahi, kèm theo lời bình theo lối đàm thoại, ngắn gọn mà súc tích của Makoto Õoka. Chỉ riêng phần sưu tầm cho được ngần ấy bài thơ từ xưa cho đến nay đã là một kỳ tích. Makoto Õoka còn làm được nhiều hơn thế nữa, bởi lẽ để người đọc Nhật Bản nói riêng và thế giới nói chung, hôm nay có thể tiếp cận một cách dễ dàng hơn với vốn thơ ca truyền thống của dân tộc Nhật, ông còn phải soạn ra cũng từng ấy lời bình phẩm. Vậy thì không vĩ đại sao được. Thậm chí còn rất vĩ đại nữa là khác. Bởi lẽ, Makoto Õoka là người Nhật duy nhất làm được điều ấy. Sau ông cho đến giờ chưa một người nào có thể làm được. Chỉ riêng việc đó thôi, Makoto Õoka cũng đủ để chúng ta kính phục và trân trọng đón đọc tuyển tập Thơ cho bốn mùacủa ông.

Nói đến Nhật Bản, nhiều người nghĩ ngay đến một cường quốc kinh tế, đứng thứ hai thế giới, sau Mỹ. Với một đất nước không lấy gì làm giàu có về tài nguyên thiên nhiên, nhưng để làm được điều đó, người Nhật đã bằng bàn tay, khối óc của mình, cần cù và sáng tạo trong suốt một thời gian dài, từ một đất nước kiệt quệ sau Chiến tranh thế giới thứ II đã vươn lên khẳng định vị thế của mình. Đấy là một thành quả quý hiếm khiến cả thế giới phải ngưỡng vọng.

Nhưng còn một Nhật Bản khác nữa, đấy là đất nước có truyền thống văn hóa lâu đời với thơ ca, nhạc, họa... mà tuyển tập Thơ cho bốn mùacủa Makoto Õoka là một minh chứng sinh động và cụ thể nhất. Trong suốt cả bốn mùa, trên xứ sở “mặt trời mọc” này đều thấm đẫm nguồn cảm hứng vô tận từ tam tuyệt: tuyết, nguyệt, hoa. Đấy là hiện thân cho vẻ đẹp tự nhiên nhất. Thông qua tài năng sáng tạo của người nghệ sĩ, vẻ đẹp tự nhiên ấy đã trở thành cái đẹp trong nghệ thuật thi họa của người Nhật.

 Mùa hoa anh đào.

Dù viết về mùa xuân, hạ, thu hay đông thì thơ Nhật vẫn mang đậm cốt cách của thơ phương Đông truyền thống, tức là thể thơ “Thi tại ngôn ngôn”, gần giống với thơ Đường Trung Quốc và thơ cổ Việt Nam. Thơ Nhật có hai thể chính là Haiku và Tanka. Haiku là thể thơ có 17 âm tiết, gồm 7 hoặc 8 chữ và thường chia thành 3 câu theo cấu trúc 5-7-5. Còn thể thơ Tanka có 31 âm tiết, xếp thành 5 câu, theo cấu trúc 5-7-5-7-7. Dù là viết theo thể thơ nào, Haiku hay Tanka, với cái vẻ nghiêm ngặt về hình thức bên ngoài, nhưng chứa đựng bên trong là cả một thế giới tâm hồn cực kỳ phong phú hòa quyện giữa con người và đất trời thiên nhiên huyền ảo của xứ sở hoa anh đào.

Với mùa xuân, khi hoa anh đào khoe sắc thắm giữa đất trời bao la thì người Nhật, vốn rất nhạy cảm nên dễ động lòng trắc ẩn, giống như: Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu/ Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ... (Truyện Kiều- Nguyễn Du). Chúng ta hãy nghe bài thơ Xuân về của Hoàng tử Shiki (716 trước Công nguyên), cách chúng ta 2.725 năm: Thác cao đổ tràn sinh lực/ Nước choàng đá tảng... vây quanh/ Dương xỉ trổ đầy chồi nõn/ Xuân xanh (bản dịch thơ của Trần Trung). Đây là một bài thơ vịnh cảnh mùa xuân với ba cảnh thực là thác nước, tảng đá và cây dương xỉ. Nhưng câu kết là một cảnh hư: Mùa xuân. Nếu không có ba thực cảnh kia thì hư cảnh xuân xanh sẽ trở nên chới với trong liên tưởng, không có “bệ đỡ” về cảm xúc làm cho bài thơ thiếu đi chiều sâu và sức nặng. Cái sinh lực của dòng thác từ trên cao đổ xuống, cái vững chãi đến lì lợm của hòn đá tảng dưới này, cùng với cái mơn mởn non xanh của khóm dương xỉ mọc bên bờ thác, tất cả đã tạo nên một xuân xanh rất Nhật Bản.

Bài Nàng thu soi gương sáng của Fujiwara no Ietaka (1158- 1237) đã vượt qua lối tả cảnh, vốn thường thấy trong thơ Nhật. Ông vẫn trung thành với thể Haiku truyền thống, nhưng về cảm quan, ông đã mạnh dạn sử dụng phương pháp, mà Việt Nam thường gọi là “nhân cách hóa”: Khi ánh trăng rải vàng/ Lên mặt hồ Biwa/ Nàng thu đến soi mình/ Trên những cánh hoa/ Sóng (bản dịch thơ của Đặng Tương Như). Vì thế, mùa thu ở đây không đơn giản chỉ là một phân khúc thời gian xoay vần, chuyển vận của đất trời. Cùng với guồng quay tự nhiên đó, mùa thu có trăng vàng, lá vàng, gió vàng và sóng cũng vàng theo màu của thời gian. Mùa thu ở đây dưới con mắt đa tình của thi nhân đã trở thành người thiếu nữ. Nhà thơ không ngại ngần khi gọi mùa thu là Nàng. Nàng thu không đến để ngắm trăng mà để “soi mình”, cũng tức là để khoe sắc thắm giữa trời đêm nạm đầy ánh trăng thu. Rất kín đáo mà cao diệu. Dưới quan niệm của người Nhật xưa, người con gái cố tình khoe sắc đẹp giữa thanh thiên bạch nhật là kẻ vô duyên, thậm chí có khi còn bị coi là hàm hồ. Khoe sắc giữa trời đêm nhưng không phải trên cõi tục trần này, mà “trên những cánh hoa sóng” nạm vàng. Sự tinh tế, ý vị đã nâng giá trị thẩm mỹ của hình tượng thơ lên một cấp độ mới.

Trong guồng quay hối hả đến nghẹt thở của nền kinh tế thị trường và thơ hiện đại hôm nay, Thơ cho bốn mùađược dịch sang tiếng Việt và xuất bản là một món quà đầy ý nghĩa, nhắc nhở mỗi chúng ta cần phải biết gìn giữ những báu vật mà cha ông đã để lại như người Nhật đã từng, đang và sẽ làm. Chính tuyển tập Thơ cho bốn mùalà sợi dây tâm hồn và tình cảm làm cho hai quốc gia, hai dân tộc Việt - Nhật xích lại gần nhau hơn.

Trung Tiến


Ý kiến của bạn