Bộ sinh phẩm có tên Sepsis@quick là kit chẩn đoán vi khuẩn gây NKH đầu tiên tại Việt Nam được ứng dụng tại BV108. Chúng tôi đã có cuộc trao đổi với PGS.TS. Lê Hữu Song - Phó Giám đốc BV108, Chủ nhiệm đề tài này.
PV: Thưa ông, vì sao ông lại quyết tâm thực hiện ý tưởng cho đề tài nghiên cứu này?
PGS.TS. Lê Hữu Song: Hàng ngày, tiếp xúc với bệnh nhân (BN) nặng, đặc biệt là BN bị nghi ngờ chẩn đoán là NKH, điều làm cho tôi trăn trở là tại sao có rất nhiều BN vẫn không xác định được mầm bệnh, có rất nhiều BN tử vong hoặc xin về vẫn không biết nguyên nhân là gì. NKH là một nhiễm khuẩn mà hiện nay các bệnh viện trong và ngoài nước đều đang gặp rất nhiều khó khăn vì mức độ bệnh rất nguy hiểm và phổ biến. Theo như số liệu báo cáo thì hằng năm, trên thế giới có khoảng 30 triệu người NKH và có khoảng 6-8 triệu người tử vong. Còn tại Việt Nam thì không có số liệu thống kê đầy đủ.
Đứng trước tình hình diễn biến phức tạp của bệnh lý này và tình trạng vi khuẩn kháng kháng sinh ngày càng gia tăng, trong khi đó, việc chẩn đoán xác định mầm bệnh gây NKH vẫn còn nhiều hạn chế dẫn đến việc điều trị hiệu quả còn thấp, tỷ lệ tử vong có thể lên tới 70-80% nếu có sốc nhiễm khuẩn. Do đó, chúng tôi đưa ra ý tưởng phải có biện pháp nào đó đòi hỏi phải nhanh và đạt độ chính xác cao. Tôi đã đề xuất với Ban Giám đốc BV108, Bộ Quốc phòng, Bộ Khoa học Công nghệ cho phép nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu chế tạo bộ sinh phẩm xác định vi khuẩn gây nhiễm khuẩn huyết thường gặp và phát hiện gene kháng kháng sinh”.
Xin ông chia sẻ kỹ hơn về tính ưu việt của bộ sinh phẩm này so với phương pháp kinh điển.
Hiện nay, tiêu chuẩn vàng trong chẩn đoán mầm bệnh là cấy máu. Tuy nhiên, phương pháp này có nhiều hạn chế, tỷ lệ dương tính thấp, chỉ khoảng 10-20% tùy thuộc chất lượng của các phòng xét nghiệm. Như vậy, tỷ lệ âm tính giả và không phát hiện ra mầm bệnh là khoảng 80-90%. Ngoài ra, phương pháp cấy máu cho thời gian rất dài, từ khi lấy máu cho tới khi có kết quả là 3-7 ngày, kết quả sớm nhất là trong 2 ngày. Mà để phát hiện chính xác là vi khuẩn gì thì phải 72 giờ mới cho kết quả. Hơn nữa, biện pháp cấy máu kinh điển là phải cấy máu trước khi sử dụng kháng sinh (KS) vì sau khi sử dụng KS thì cấy máu không còn hiệu quả nữa. Trong khi đó, NKH có sốc mà không được điều trị đặc hiệu sớm thì tỷ lệ sống của BN sẽ giảm đi 8% sau mỗi giờ chậm điều trị đặc hiệu. Gần như cơ hội cứu sống là con số 0 nếu sau 24 giờ mắc bệnh mà không được điều trị đặc hiệu.
PGS.TS. Lê Hữu Song (người đứng phía trong) hướng dẫn các bác sĩ thực hiện kit xét nghiệm chẩn đoán vi khuẩn gây nhiễm khuẩn huyết.
Trước đây, khi có nghi ngờ NKH thì các BS sẽ cho điều trị bao vây để cứu tính mạng cho BN. Nhưng điều trị bao vây gây ra tình trạng kháng KS mà hiện nay chúng ta đang rất khó khăn khi đối mặt.
Phương pháp này của chúng tôi yêu cầu lượng máu ít (chỉ khoảng 1-2ml so với cấy máu là 10-20ml máu). Nó đạt độ tương đồng 90,2% so với cấy máu truyền thống, đặc biệt không phụ thuộc vào việc BN được điều trị KS trước đó. Do đó, vẫn có thể phát hiện được tác nhân vi khuẩn ở những BN đã dùng KS mà kết quả cấy máu âm tính.
Kết quả nghiên cứu của đề tài đã giải quyết một vấn đề khó khăn trong chẩn đoán bệnh NKH - một căn bệnh nguy hiểm, phổ biến, khó xác định căn nguyên và tiên lượng xấu, đặc biệt trên người cao tuổi, trẻ em, người mắc bệnh mạn tính khác. Đây là công trình đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu khám phá, xây dựng được quy trình xác định mầm bệnh gây NKH phổ biến và gene kháng KS.
Lợi ích mang lại cho BN là rõ rệt bởi khi ứng dụng công nghệ này, việc phát hiện nhanh chóng và chính xác tác nhân vi khuẩn gây bệnh giúp BS sớm đưa ra được phác đồ điều trị, rút ngắn thời gian nằm điều trị đồng thời giảm thiểu nguy cơ tiến triển bệnh nặng cho BN.
Xin được nói thêm là có 3 nguyên nhân khác nhau gây NKH: do vi khuẩn, ký sinh trùng và virut (chiếm khoảng trên 30%). Như vậy thì hầu hết các ca NKH do vi khuẩn đã được phát hiện và được điều trị kháng sinh kịp thời bằng bộ kit của chúng tôi. Hiện nay, đề tài của chúng tôi mới chỉ tập trung nghiên cứu để tìm ra NKH do vi khuẩn chứ chưa phủ hết được cả virut và ký sinh trùng. Hiện nay, chúng tôi đang tiếp tục nghiên cứu để tiến tới xây dựng bộ kit có phạm vi phát hiện được cả các mầm bệnh do 2 nguyên nhân còn lại.
Ông có thể cho biết khi nào thì bộ kit này được đưa ra sử dụng rộng rãi?
Thực tế, toàn bộ bệnh nhân nghi ngờ NKH điều trị tại BV108 đều đã được sử dụng thường quy kỹ thuật này. Chúng tôi cũng đã cung cấp cho các Bệnh viện 175, 103, BV Nhiệt đới... Còn để đưa bộ kit thành sản phẩm thương mại thì phải hoàn thiện dự án tiếp theo. Hiện nay, chúng tôi đang có rất nhiều công ty muốn hợp tác để sản xuất bộ kit đưa ra thị trường, do đó, khả năng đưa ra thị trường là rất lớn. Chúng tôi rất mong sản phẩm sớm được đưa ra thị trường để tất cả các bệnh viện cùng được sử dụng.
Trân trọng cảm ơn ông!