Biến khó khăn thành cơ hội trong đại dịch-Bài học cho Việt Nam

05-05-2020 22:39 | Thời sự
google news

SKĐS - Khủng hoảng cũng có thể trở thành cơ hội để quốc gia phát triển nhanh, mạnh và bền vững hơn nếu nhận thức và ứng phó tốt, đó là nhận định của các chuyên gia kinh tế thuộc Mạng lưới học thuật Việt Nam tại Nhật Bản - VANJ.

4 diễn giả kinh tế Phạm Chi Lan, Trần Thị Thu Hà, Nguyễn Duy Tuấn và Trần Thị Huệ cùng "Nhóm Thông tin COVID-19 tại Nhật Bản" (nhóm tình nguyện được thành lập để chia sẻ tới cộng đồng người Việt tại Nhật Bản những thông tin chính thống về tình hình dịch bệnh, biện pháp phòng tránh và những chính sách liên quan của chính phủ Nhật Bản) đã đưa ra những nghiên cứu, đánh giá về sự ảnh hưởng đại dịch lên các doanh nghiệp của Việt Nam cũng như của Nhật Bản, sự thay đổi cách tiếp cận khách hàng trong và sau đại dịch, sự thay đổi mối quan hệ giữa các nước lớn, cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung, từ đó rút ra các bài học cho Việt Nam về việc tái cấu trúc kinh tế và nâng cao phần giá trị gia tăng của Việt Nam trong chuỗi giá trị của thế giới.

Chuyên gia kinh tế hàng đầu Phạm Chi Lan chia sẻ về COVID-19 và ảnh hưởng tới kinh tế Việt Nam

Khảo sát tại Nhật Bản với hơn 12.000 doanh nghiệp cho thấy có khoảng 65% doanh nghiệp quy mô lớn và 53% doanh nghiệp quy mô nhỏ bị ảnh hưởng bởi COVID-19 và những ngành chịu ảnh hưởng nặng nhất là ngành bán buôn, bán lẻ, bảo hiểm, tài chính, bất động sản. Trong khi đó theo khảo sát ở Việt Nam thì 85% doanh nghiệp chịu tác động xấu bởi đại dịch và các ngành bị ảnh hưởng nặng nề là du lịch, vận tải, thương mại và các ngành công nghiệp gia công như dệt may, da giầy, đồ gỗ, nông lâm thủy sản, những ngành sử dụng nhiều lao động giản đơn. Các doanh nghiệp Việt Nam đã vấp phải khó khăn trong cả ba lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ bởi quá phụ thuộc vào một vài thị trường xuất khẩu hàng hóa và nhập khẩu thiết bị và các sản phẩm trung gian phụ trợ công nông nghiệp, chuỗi cung ứng bị gián đoạn, tổng cầu trong nước cũng như nước ngoài đều sụt giảm. Các chuyên gia nhận định rằng khả năng phục hồi của những ngành nghề này nói riêng và nền kinh tế nói chung sẽ phải kéo dài nhiều năm, do còn phụ thuộc vào bối cảnh kinh tế toàn cầu đang thay đổi sâu sắc.

Do sự cách ly xã hội, các hoạt động online trở nên phổ biến và phát triển hơn, chẳng hạn học trực tuyến, mua sắm online, bán hàng online. Trong các ngành nghề thì dịch vụ chăm sóc sức khỏe cả phòng bệnh và điều trị được quan tâm và đầu tư hơn cả, tuy vậy cách tiếp cận với khách hàng đã thay đổi từ việc lấy cơ sở là trung tâm trở thành lấy người bệnh là trung tâm. Điều này dẫn đến sự phát triển các công nghệ khám chữa bệnh tại nhà (telehealth, telemedicine), chăm sóc sức khỏe cho người dân, kể cả người trẻ, các vật tư thiết yếu cho thời dịch (test kit, vắc xin, máy thở, khẩu trang...) và nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực. Đây chính là cơ hội cho Việt Nam nếu có thể sản xuất được các mặt hàng này và cung cấp các dịch vụ này phục vụ nhu cầu trong nước và quốc tế.

Những diễn giả và người tham dự hội thảo trực tuyến "COVID-19 và Ảnh hưởng Kinh tế Việt Nam" do Mạng lưới học thuật Việt Nam tại Nhật Bản (VANJ) tổ chức

Một điểm quan trọng là sự thay đổi trong mối quan hệ giữa các quốc gia lớn đặc biệt là chiến tranh thương mại Mỹ - Trung. Bên cạnh đó là việc các quốc gia phát triển như Nhật Bản hay Mỹ và các nước Châu Âu đang có kế hoạch rút một số doanh nghiệp khỏi Trung Quốc, chuyển hướng về nước họ và sang các nước khác, trong đó có ASEAN. Điều này vừa đem lại cơ hội song cũng là thách thức cho Việt Nam. Trong tình hình đó, Việt Nam đang chuẩn bị thực thi CTPPP, EVFTA cũng như đang triển khai FTA với nhiều quốc gia như EPA với Nhật, FTA với Hàn Quốc. Việt Nam có cơ hội lớn để tăng cường hợp tác với các nước này, cùng nhau tái cấu trúc các chuỗi cung ứng để tăng nội lực, nội khối, bớt phụ thuộc vào Trung Quốc và tận dụng lợi ích của các FTA. Một thực trạng hiện nay mà Chính phủ và giới chuyên gia đều nhận thấy đó là nền kinh tế Việt Nam vẫn phụ thuộc vào FDI và các doanh nghiệp nước ngoài, giá trị gia tăng nội địa không cao chỉ 10-15% chuỗi giá trị tổng thể. Trong khi đó phần lớn các doanh nghiệp trong nước còn nhỏ về qui mô, khá lạc hậu về công nghệ và quản trị, ít kết nối với FDI và dễ bị tổn thương. Việt Nam cần phải chuẩn bị sẵn sàng đối phó với những điều chỉnh trong chính sách các quốc gia chẳng hạn việc Mỹ cân nhắc rút Việt Nam ra khỏi danh sách “quốc gia đang phát triển” trong Luật Thuế chống trợ cấp, hay công ty nước ngoài sẽ lợi dụng cơ hội để đầu tư thâu tóm các doanh nghiệp Việt Nam đang bị khủng hoảng vì COVID-19. Cần có chính sách về thu hút FDI để nâng cao chất lượng FDI, đồng thời cẩn trọng hơn trong chọn lựa và giám sát FDI.

Những bài học cần rút ra cho Việt Nam để tái cấu trúc nền kinh tế, nâng cao giá trị gia tăng của Việt Nam trong chuỗi giá trị của thế giới là gì? Đại dịch COVID-19 đã làm bộc lộ những điểm yếu trong cấu trúc và vận hành nền kinh tế của tất cả các quốc gia, Việt Nam cũng không ngoại lệ. Do vậy, tất cả các diễn giả đều coi đây là một thời cơ để Việt Nam tự nhìn nhận lại, điều chỉnh chiến lược, tăng cường nội lực, và triệt để tư duy bứt phá. Để có thể vượt qua khủng hoảng, Việt Nam cần xác định rõ vị thế của mình, đánh giá sâu sắc về thực trạng, tìm kiếm những thế mạnh và mũi nhọn thực sự. Chính phủ cần chú trọng phục hồi và phát triển những ngành ứng dụng công nghệ cao hơn, mang lại thu nhập / giá trị gia tăng nhiều nhất, lao động có kỹ năng nhiều nhất và toàn lực tập trung phát triển nó trong thời gian ngắn nhất; giống như chúng ta toàn lực dập dịch đợt vừa qua. Việt Nam không thể cứ mãi gia công mà phải phát triển công nghiệp, dịch vụ sáng tạo một cách mạnh mẽ hơn. Chính phủ và doanh nghiệp cần phân bổ và sử dụng các gói cứu trợ một cách khôn ngoan, chính xác để phát huy và tạo nên các thế mạnh mới. Việc đầu tư cần mang tính lâu dài, bền vững và cũng cần một cơ chế minh bạch, rõ ràng với tinh thần’’chống tụt hậu như chống giặc’’.

Ở Việt Nam, việc phòng chống, phát hiện và điều trị COVID-19 được Chính phủ coi như một “cuộc chiến”, “chống dịch như chống giặc”, “mỗi người dân là một chiến sỹ”. Qua công tác chỉ đạo và điều hành thời gian qua, Chính phủ đã tạo niềm tin cho người dân và sự gắn kết bên trong giữa các bộ, ban ngành. Chính phủ cần tận dụng cơ hội này để tích cực thực thi các biện pháp thay đổi. Bên cạnh đó, nhà nước cần cởi mở đối thoại về việc chảy máu chất xám, việc hợp tác với các nhà khoa học để thương mại hóa các bằng sáng chế, hợp tác các doanh nghiệp tư nhân trong nghiên cứu. Cùng với đó, Chính phủ cần có cơ chế để các chuyên gia người Việt ở nước ngoài có thể đóng góp tích cực và hiệu quả cho sự phát triển của Việt Nam.


Đỗ Đăng An, Vụ HTQT, Bộ Y tế
Ý kiến của bạn