Chưa có nhiều người viết về biển đảo qua sự phóng chiếu từ làng. Nhà thơ Nguyễn Hữu Quý là một trong số những người đầu tiên chọn cách tiếp cận này. Tập trường ca Hạ thủy những giấc mơ (1) gồm 9 khúc, khoảng hơn 1.000 câu thơ, được viết theo thể tự do, dễ đọc và dễ cảm nhận. Nhưng điều làm tôi thú vị là biển đảo qua thơ anh không hề xa ngái, rất gần và dễ tiếp cận nhờ vào độ nén xúc cảm mà nhà thơ đã truyền cho người đọc.
Biển đảo hiện lên từ sâu thẳm của làng
Biển hiện lên trong cảm thức làng. Làng hiện lên trong bao dung sâu xưa và rộng dài của biển. Ngay ở khổ thứ ba, câu thứ 15-19 của trường ca đã thể hiện rất rõ điều ấy: Xoay nhịp trống đồng/ gõ vang sấm biển/ chớp bão khơi xa nhay nháy canh gà/ có khuya khoắt ao làng nổi sóng/ canh gió đồng ướt át nghìn năm...
“Xoay nhịp trống đồng” cũng đồng nghĩa với việc đi ngược thời gian, lần tìm nguồn cội tổ tiên. Và như số trời đã định, tổ tiên ta đều sinh ra từ làng và tất thảy mọi làng Việt đều quay mặt hướng ra biển Đông. Như thế, ai dám chắc ở ngoài xa khơi ấy không có làng và biển Đông không phải là một cái làng theo một ý nghĩa nào đấy. Do vậy, dù lớn hay bé, ngày hay đêm, biển lặng yên hay bão tố đều dội đến, dội về và dội vào tận trong thẳm sâu làng. Biển Đông vừa là một cái “làng - nước” khổng lồ nơi trùng khơi ngàn năm sóng vỗ, vừa là một cái hàn thử biểu đối với làng Việt. Biển động, làng cũng sẽ không yên. Chớp mãi tận trùng khơi cũng sẽ làm ao làng nổi sóng, cánh đồng mùa vụ của làng cũng khê ướt bởi gió Đông. Làng gắn liền với sự tanh nồng, hoang hoải và lấm láp của bùn đất, khi nắng, lúc mưa, sự dạn dày cay gừng, mặn muối mà ru nhau theo nhịp võng à...ơi... sấp ngửa/ ru nhau/ mặn muối cay gừng/À ơ…/ muối mặn gừng cay/ một nửa ca dao đất nước tôi là biển/ thủy triều vơi đầy lục bát/ những hải lưu sáu tám chở vui buồn...
Có thể nói, làng Việt không chỉ có sự nếm trải và cam chịu của mỗi người, mà quan trọng hơn là qua làng và từ làng, người Việt biết phải làm gì để giữ làng và xây làng. Và nếu như mỗi làng đều được giữ và được xây thì đất nước sẽ bình yên và cường thịnh. Mọi cuộc chính biến, binh đao máu lửa, mọi đói nghèo đều có nguồn cội từ làng. Làng là điểm khởi xuất và cũng là đích đến cuối cùng của mọi cuộc vận động lịch sử. Vào buổi đầu, khi đất nước có ngoại xâm thì người anh hùng đầu tiên cũng sinh ra và lớn lên từ làng: Đất nước có Phù Đổng/ cơm nong cà vại nuôi anh hùng/ nuôi chúng tôi cũng cơm cà của mẹ...
Sau những cuộc binh đao, đất nước thanh bình, ta lại mơ giấc mơ trở về nguồn cội như những chiến hạm, những con tàu sau mỗi lần vượt trùng khơi qua nơi sóng dữ, cập bến bình yên: Hạ thủy giấc mơ xanh/ chia tay những nàng tiên cá/ con tàu bay về miền rơm rạ/ đậu xuống ao làng/ bóng mẹ áo xanh, bóng em áo trắng/ biển của tôi/ xanh - trắng mơ màng…
![]() (1) Hạ thủy những giấc mơ. Trường ca của Nguyễn Hữu Quý. Nxb Lao động, H, 2013 |
Giữ biển đảo như giữ làng
Đối với những người lính, canh chừng biển đảo như giữ làng nên họ nào đâu quản ngại: dẫu biết đi không về/ lòng không nao núng/ hồn thiêng/ vằng vặc biển Đông.../ Trường Sa/ đồng đội tôi/ những người lính/ mặt trẻ/ tóc già/ những chàng trai tuổi mười tám, đôi mươi/ tóc lấm tấm bạc...
Bởi trong cái “làng-biển” ấy luôn có mẹ ở bên. Mẹ dõi theo từng bước chân ta. Mẹ lẩn khuất vào từng cọng mồng tơi, rau dền, bông muống, quả ớt chín ngoài ô cửa sổ, vào từng câu dân ca ngọt ngào từ thuở ấu thơ: Ở nơi góc bể chân trời/ mẹ như ngọn dền xanh, mẹ như bông muống trắng/ như bên cửa sổ khẩu đội có cây ớt chín/ dây mồng tơi vấn vít ngoài thềm mẹ là bài dân ca đêm qua cô văn công vừa hát/ chúng tôi vỗ tay hát theo như uống ngọn nguồn…
Những anh lính ra đi giữ đảo từ làng, nên các anh cũng mang theo những lề thói làng, thậm chí càng đi xa, những lề thói và giá trị ấy càng hiện lên gần hơn và cũng đau đáu hơn. Chúng đã ăn quá sâu vào tâm thức của các anh nên nó đã trở thành một hằng số bất biến, vượt qua mọi không gian và thời gian lịch sử. Tâm thức và giá trị làng như một phần tất yếu trong mỗi con người và góp phần làm nên sức mạnh cho các anh: mơ mùi lúa, mùi chanh, mùi bưởi/ xin một lần hương bồ kết về đây/ cho đá san hô cũng cất cánh bay/ và biển cả cũng bớt phần kiêu ngạo...
Để rồi, hết ngày dài đến đêm thâu, qua tháng qua năm và trườn qua nhiều thế hệ, không ít vương triều, các anh đã tự tìm ra cho mình một phương cách tồn tại riêng: Tồn tại ở Trường Sa/ phải bằng những tầm kích hợp lý/ phải biết cắm sâu/ cũng phải biết dẻo dai/ biết dồn tụ chắt chiu/ biết gồng mình chống đỡ/...
Bởi các anh ý thức rất rõ rằng, hơn ai hết nơi đảo xa, biển rộng, mẹ hiền Tổ quốc đang cần các anh làm lá chắn, cột mốc và chốt chặn cuối cùng để khẳng định ranh giới, địa phận của làng và cũng là chủ quyền của quốc gia: ...vì Tổ quốc/ chúng tôi là cột mốc/ chúng tôi là trận địa tiền duyên/ chúng tôi là lá chắn/ chúng tôi là bệ phóng/ chúng tôi là chốt chặn xâm lăng...
“Làng-đảo” hay “làng-biển” cũng đều gắn liền với sóng, lúc bình yên vỗ về che chở ta, lúc cuồng phong, sóng cồn giận dữ như muốn nuốt chửng ta vào lòng. Dù vậy, muôn đời vẫn là tình biển dành cho làng: Làng trên sóng ngóng mưa rơi/ ăn nằm kẽo kẹt mù khơi nổi chìm/ mắm tôm, cà xổi, cá rim/ thương nhau lục bát đi tìm ca dao...
Làng là điệp khúc triền miên từ xưa ngái đến xa sau, từ những điều bình dị nhất đến những giá trị lớn lao nhất, từ hành vi đến tâm thức, từ thói quen đến tục lệ, đâu đâu cũng chỉ thấy có làng và làng. Đối với những người con đất Việt, biển đấy mà cũng là làng đấy. Mất biển là mất làng. Nhưng từ ngàn đời nay, qua những lần họa xâm lăng, nước dù có mất nhưng làng thì không thể. Vậy thì làm sao lại có thể mất biển được. Có lẽ đấy chính là thông điệp mà nhà thơ Nguyễn Hữu Quý muốn gửi đến các thi hữu và công chúng yêu mến thơ anh.
Đỗ Ngọc Yên