Cũng theo bác sĩ Toàn, nguyên nhân chính dẫn tới những biến chứng này chủ yếu nằm ở tay nghề bác sĩ. Bởi các cấu trúc thần kinh ở đáy chậu của phụ nữ khá sâu và được bảo tồn tốt. Các biến chứng sẽ khác nhau tùy thuộc vào quy trình tiến hành thủ thuật.
Biến chứng sau tạo hình cắt "môi bé"
Tách mép và bục chỉ vết mổ là biến chứng phổ biến nhất ở cả 2 kỹ thuật cắt thẳng và cắt wedge (cắt hình chữ V). Biến chứng này dễ gặp ở các bệnh nhân hút thuốc và béo phì.
Tách mép và bục chỉ xảy ra ở mép xa nhất của đường khâu (bờ tự do). Các mép niêm mạc có xu hướng lộn vào trong. "Trong quá trình phẫu thuật, bác sĩ yếu chuyên môn thường cắt quá cụt hoặc cắt không đúng, khiến đường khâu phải chịu lực và dẫn tới biến chứng tách mép. Thời gian xảy ra biến chứng này thường từ 6-8 tuần sau phẫu thuật. Việc cắt bỏ đủ lượng mô cần thiết cùng với các đường khâu không chịu lực là chìa khóa để hạn chế những biến chứng này", bác sĩ Phan Toàn cho biết.
Khi sử dụng kĩ thuật cắt bờ tự do, biến chứng để lại có thể là đường bờ viền không mềm mại, bị cụt và biến dạng hình mũ âm vật.
"Tạo hình "môi bé" là một kỹ thuật an toàn và hiệu quả giúp giảm kích thước cũng như độ lồi của "cô bé". Tuy vậy, các biến chứng vẫn có khả năng xảy ra. Là một bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ vùng kín, cần phải thành thạo trong việc xử lý vấn đề này", bác sĩ Phan Toàn nhấn mạnh.
Biến chứng webbing cũng thường xuất hiện trong kỹ thuật cắt wedge. Biến chứng này được hiểu rằng hai bên môi bé hợp nhất ở mép môi sau, gây khó chịu và cảm giác bị cọ xát do lỗ âm đạo phía sau bị hẹp.
Ngoài ra, biến chứng thủng thường xảy ra ở vị trí đầu và dọc theo đường khâu đóng khi thực hiện cắt chữ V. Nguyên nhân thường đến từ việc vết khâu quá chặt làm tắc mạch. Vậy nên, cần thắt các mối chỉ khâu lỏng vừa đủ để hai mép môi bé áp sát vào nhau, tránh tạo áp lực lên đường khâu.
Biến chứng mismatch sắc tố cũng liên quan tới kiểu cắt wedge gây biến đổi sắc tố đột ngột hoặc hình thành dải sắc tố trên bề mặt da vùng kín sau phẫu thuật. Phần lớn mismatch có thể tự hết nhưng cũng phải mất 6-12 tháng.
Biến chứng cấy mỡ và tiêm làm đầy môi lớn
Sau cấy mỡ hoặc tiêm chất làm đầy môi lớn, khách hàng có thể cần tới đợt cấy hoặc tiêm thứ 2 sau 6-8 tháng. Việc cấy mỡ tự thân hay tiêm chất làm đầy có thể có biến chứng không tương thích với cơ thể hoặc hoại tử.
Trong trường hợp hoại tử và viêm nhiễm dai dẳng, bác sĩ có thể chỉ định phẫu thuật loại bỏ các mô đã cấy/tiêm. Các biến chứng thường thấy sau kỹ thuật làm đầy môi lớn là bầm tím và đau nhức. Chúng xuất hiện ngay trong tuần đầu tiên sau phẫu thuật tạo hình môi lớn. Với những khối máu tụ nhỏ thường có biểu hiện đau, sưng cục bộ và căng tức. Khối tụ máu lớn sẽ xuất hiện trong 24h sau phẫu thuật và chỉ xuất hiện ở một bên, gây mất cân đối.
Một số biến chứng thường gặp khác
Biến chứng khe đồng tiền (coin slot) xảy ra do cắt quá mức niêm mạc "môi bé", khiến âm hộ bị "hẹp" nhiều. Điều này tạo ra hình ảnh khe đồng tiền. Bên cạnh đó coin slot cũng khiến nắp âm vật bị kéo về phía sau, che phủ quy đầu âm vật. Từ đó làm giảm độ nhạy cảm của âm vật.
Như vậy, dù tỷ lệ biến chứng chỉ chiếm 2-4% nhưng vẫn gây ảnh hưởng nhiều tới cảm giác và hình thể của vùng. Bác sĩ phẫu thuật cần giải thích cho khách hàng hiểu để tham gia tạo hình thẩm mỹ vùng kín được tốt hơn.
Bác sĩ Phan Minh Toàn cho rằng, trong mọi tình huống, bác sĩ luôn là chìa khóa cho sự thành công của một ca tạo hình thẩm mỹ. Bác sĩ có chuyên môn cao, kinh nghiệm "chinh chiến" nhiều, phản ứng nhanh với các biến chứng sẽ giúp khách hàng đạt kết quả tốt và an toàn sau mỗi ca phẫu thuật.