Từ lâu lắm rồi, giữa cái thung lũng tận cổng trời Tuyên Quang ấy, bộ tộc người Thủy cứ bị cái đói, cái nghèo bám riết lấy hệt như “con ma rừng” khó đuổi. Bao đời nay, cứ mỗi mùa mưa tới, người Thủy ở đây lại lang bạt khắp non cao, vực thẳm tìm măng mai, hái rau rừng... Và, đã có lúc bộ tộc này đứng bên bờ của sự tuyệt chủng.
Tìm về thuở hồng hoang
Từ trung tâm thành phố Tuyên Quang (tỉnh Tuyên Quang), vượt qua gần 100km đường rừng, chúng tôi về tới xã Hồng Quang (huyện Lâm Bình, Tuyên Quang) - gần tới bản Thượng Minh, “đại bản doanh” của dân tộc Thủy (còn gọi là tộc Mèo Nước). Khi biết chúng tôi có ý định vào bản Thượng Minh, ông Mai Đình Nhiêu, Bí thư Đảng ủy xã Hồng Quang nhìn chúng tôi e ngại: “Nhà báo muốn lên đó tìm hiểu thực tế thì tốt quá, nhưng chỉ sợ đi nửa đường nhà báo lại phải quay về…! Từ đây lên bản Thượng Minh gần 20km nhưng đều là đường rừng, phải đi bộ, người khỏe cũng mất nửa ngày mới tới nơi”.
Vì quyết định ngủ đêm tại bản của người Thủy để tìm hiểu rõ hơn về cuộc sống của họ nên chúng tôi lên đường ngay. Khi tới con đường mòn xuyên rừng dẫn tới bản Thượng Minh, bất đồ trời đổ mưa. Mưa rừng nước đổ sầm sập, nước theo triền dốc chảy xuống ào ào như thác. Đường trơn tuột, chúng tôi tay chống gậy, bấu chặt mười đầu ngón chân xuống đất, gồng mình đội mưa vượt qua dốc núi đá dựng đứng.
Mãi rồi mưa cũng tạnh, con đường mòn xuyên rừng xa tít tắp đó cũng dẫn đến cây cầu gỗ báo hiệu chặng đường đã hết. Lúc này mặt trời đã chìm sau đỉnh núi, những mái nhà tranh khép nép dưới các gốc cọ già - bản người Thủy là đây. Chiều đại ngàn thâm u tĩnh mịch, những người dân bản đi rừng lục tục kéo nhau về. Đám trẻ thấy khách lạ, bìu ríu lấp ló sau bậu cửa nhìn chúng tôi lưng khoác ba lô, ngực đeo máy ảnh với ánh mắt đầy vẻ thăm dò.
Bản người Thủy heo hút giữa đại ngàn Tuyên Quang. |
Cuộc sống giữa rừng xanh và huyền tích hòn đá thiêng
Theo tài liệu của UBND xã Hồng Quang, bản người Thủy hiện chỉ còn 18 hộ gia đình với 92 nhân khẩu. Người Thủy không ở nhà sàn như người Mường, người Tày. Những căn nhà của họ đều có chung một kiểu đó là mái lợp lá cọ, cột nhà bằng gỗ, vách đan bằng nứa lồ ô đập dập. Nhà nọ ngăn cách với nhà kia một hàng rào mỏng mảnh bằng nứa, sát bên chái nhà là một chiếc chuồng trâu, nơi cư ngụ của thứ tài sản lớn nhất trong mỗi gia đình. Người Thủy sống nhờ việc canh tác trên nương ngô, nương sắn.
Theo ông Mai Đình Nhiêu, trước đây, dân tộc Thủy được coi là một nhánh của dân tộc Mông. Họ có mặt ở nước ta từ mấy trăm năm trước và được xem là cộng đồng thiểu số ít nhất trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam.
Trong ký ức của già bản người Thủy, khoảng 6-7 đời trước, cha ông người Thủy ở Thượng Minh ngày nay sống ở Quý Châu (Trung Quốc). Ngày ấy loạn lạc triền miên, đói nghèo cùng cực đã khiến một số người Thủy quyết định ly hương. Suốt cuộc hành trình khốc liệt ấy, cả bộ tộc hàng ngàn người khi đến được vùng rừng núi Vị Xuyên (Hà Giang, Việt Nam) chỉ còn khoảng 80 hộ với vài trăm người, số còn lại đã bỏ mạng trên đường tìm đất sống.
Do ngôn ngữ, tập tục khác hẳn các dân tộc địa phương ở Hà Giang nên nhóm người Thủy lúc bấy giờ sống biệt lập. Họ dựng vợ gả chồng quanh quẩn trong bản. Trong quá trình mưu sinh gay gắt đó cộng với tình trạng hôn nhân cận huyết và bệnh tật nơi rừng thiêng nước độc đã làm người Thủy chết dần chết mòn. 80 hộ đến được Hà Giang chỉ còn chưa đến 10. Sau Cách mạng Tháng Tám, chỉ còn 3 hộ, tổng cộng 13 người của 3 họ Lý, Mùng, Bàn, đem nhau về bản Thượng Minh sống du canh du cư trên các ngọn núi cao. Đến năm 1961, thực hiện phong trào hợp tác hóa, chính quyền địa phương đã đưa đồng bào các dân tộc thiểu số xuống vùng thấp sống tập trung, hướng dẫn cho người Pà Thẻn, người Mông, người Thủy cấy lúa nước. Dù ít người, họ vẫn tạo thành một tập thể riêng biệt, từ ngôn ngữ, trang phục đến những nét sinh hoạt.
Nhiều năm qua, nhờ những chính sách dân tộc của Nhà nước đã làm thay đổi căn bản đời sống kinh tế, văn hoá, giáo dục, đã giúp dân tộc Thủy thoát khỏi nạn diệt vong. Thoát khỏi nguy cơ diệt vong, bộ tộc Thủy bắt đầu hồi sinh. Số trẻ sinh ra đã nhiều hơn số già lão chết đi. Các cuộc hôn nhân cận huyết cũng bị loại trừ để bảo tồn nòi giống.
Ngôi nhà đầu tiên chúng tôi ghé thăm là ông Bàn Văn Kim, 77 tuổi, ông Kim là thầy mo duy nhất của bản còn sống. Khi biết chúng tôi tìm hiểu về tập tục cúng thần, trừ tà của dân tộc mình, thầy mo Kim cẩn trọng bê một chiếc hòm gỗ nhỏ cất trên gác bếp xuống. Bên bếp củi lập lòe, ánh lửa nhảy nhót khắp căn nhà ẩn hiện mặt người, thầy mo Kim chậm rãi, kính cẩn lấy ra hòn đá có lỗ thủng - theo như lời ông đây chính là hòn đá thiêng có “công năng” phi phàm gắn liền với sự sinh tồn của dân tộc Thủy. Hòn đá thiêng ấy trong quá khứ đã như một bộ “giáp sắt” mang lại sự bình an cho dân tộc họ.
Theo thầy mo Kim, hòn đá thiêng là bảo vật truyền đời của các thế hệ thầy mo trong bản. Đây chính là “vũ khí tối thượng” của các thế hệ thầy mo để tiêu diệt ma quỷ trong các buổi lễ trừ tà. Ở lỗ thủng của hòn đá thiêng, một sợi dây rừng xuyên qua, đầu sợi dây bên kia cột vào giữa một chiếc gậy được vót tròn từ chiếc bẹ của cây cọ sống hàng chục năm tuổi.
Tiếng Kinh lơ lớ, ông Kim nói rằng hòn đá này khi xưa được các thầy mo có uy tín trong bản cất công đi tìm trên đỉnh núi cao hoặc dưới lòng sông suối, nơi chưa hề có dấu chân người để tránh bị ô uế, mất linh thiêng và đặc biệt hòn đá phải có sẵn lỗ thủng thiên tạo vì người Thủy xưa tin rằng hòn đá đó chính là vưu vật thần linh gửi xuống cho họ để đuổi tà xua ma, thậm chí chữa… bệnh!
Thiếu nữ người Thủy trong bộ trang phục truyền thống. |
Vượt rừng thiêng, phá lời nguyền tìm ánh sáng
Ông Lý Văn Lâm, Trạm trưởng Trạm y tế xã Hồng Quang cho biết: Nhiều năm trước đây, người Thủy ở bản Thượng Minh quan niệm, trong nhà có người ốm đồng nghĩa với việc bị con ma rừng nhập vào quấy phá và việc duy nhất của họ là mời thầy mo mang theo hòn đá thiêng về cúng. Lễ vật của buổi lễ trừ tà thường là một con gà hoặc chiếc thủ lợn cùng nải chuối với mấy bông hoa rừng.
Sau khi tắm rửa sạch sẽ, thầy mo ngồi xổm quay đầu về núi phía mặt trời mọc, dùng ngôn ngữ Thủy cổ lẩm nhẩm đọc bài chú mời thần rừng về. Tiếp đó tiến đến gần chỗ người ốm nằm, ngồi xuống, đặt hai khuỷu tay trên đầu gối, hai bàn tay chìa ra nâng que gỗ buộc hòn đá thiêng, giữ im hòn đá trên đầu người ốm và tiếp tục đọc bài chú thứ hai là bài chú mượn “uy” thần rừng để… “trục xuất” con ma ra khỏi người bệnh. Người nhà kính cẩn ngồi chắp tay quanh mâm đồ lễ. Buổi lễ diễn ra trong không khí tuyệt đối tĩnh lặng, chỉ nghe tiếng lầm rầm khấn vái của thầy mo. Hòn đá thiêng treo dưới sợi dây bất chợt đung đưa và họ tin rằng như vậy thần núi đã về để “xử lý” con ma?! Cuối cùng, thầy mo sẽ dùng một cành lá hái trên rừng nhúng vào bát nước… “thiêng” lấy từ đỉnh núi rồi vẩy quanh giường người bệnh nhằm không để con ma rừng quay lại!? Khi buổi lễ kết thúc, gia chủ thường “lại quả” một nửa đồ lễ cho thầy mo.
Ông Lâm cho biết thêm, từ khi con đường vào bản được mở rộng, ông và 6 nhân viên trạm y tế xã phân công nhau thường xuyên vào tận nơi làm công tác tuyên truyền phá bỏ một số tập tục mê tín. Bên cạnh đó công tác khám chữa bệnh cho bà con dân bản cũng được ngành y tế huyện hết sức quan tâm nên được bà con dân bản ngày càng tin tưởng. Đến nay mặc dù tập tục cúng thầy mo vẫn còn duy trì nhưng hầu hết dân bản mỗi khi trong nhà có người ốm đều cố gắng đưa người bệnh xuống trạm y tế xã thuốc men điều trị.
Ở bản Thượng Minh, ông Lý Văn Ngọc là người rất nổi tiếng, chẳng phải nhà ông có hàng chục con trâu bò hay có tòa ngang dãy dọc gì mà chỉ bởi ông là đảng viên duy nhất của tộc người Thủy và có 4 người con đều dám “vượt qua” lời nguyền của núi rừng, tìm đến ánh sáng văn minh. Trầm ngâm bên bếp lửa, ông Ngọc chỉ về dãy núi cao như bức tường thành bao bọc bản làng: “Tổ tiên của tôi tin rằng thần linh ngự trị trên các đỉnh núi đó, chỉ có sống tại bản làng thì mới được các vị thần che chở nên ít khi người dám vượt núi tính kế mưu sinh”. Cách đây vài năm, con đường nối từ bản tới trung tâm xã được mở rộng, đời sống dân bản khá lên từng ngày, ông Ngọc đã mạnh dạn cho cô con gái lớn, Lý Thị Toàn hạ sơn đi tìm tương lai.
Ngày đầu tiên Toàn rời bản về tỉnh học Trường trung cấp Y, bà Múng Thị Thủy (dân tộc Pà Thẻn, mẹ của Toàn) và ông Ngọc lo lắng lắm. Nể lời bà ngoại của Toàn, họ nhờ thầy mo Kim dùng hòn đá thiêng kêu gọi thần linh phù hộ mang lại may mắn cho con mình. Chẳng biết do hòn đá thiêng của thầy mo Kim linh ứng hay nhờ công chịu khó học tập mà 2 năm sau Lý Thị Toàn hồ hởi mang tấm bằng tốt nghiệp đỏ chói về nhà. Sau 1 năm công tác tốt tại xã Hồng Quang, tới năm 2009, Toàn được người dân tín nhiệm bầu làm Chủ tịch Hội liên hiệp phụ nữ xã.
Theo bước chân của chị, Lý Thị Hạnh, cô con gái thứ 2 của ông Ngọc đã dùi mài kinh sử và thi đỗ vào Học viện Hành chính Quốc gia, theo học mãi tận Hà Nội. Hai cậu em trai cũng đang gắng sức theo nghiệp bút nghiên tại trường cấp 3 huyện. Tấm gương của chị em Toàn khiến nhiều gia đình dân tộc Thủy ở thung lũng Thượng Minh bây giờ đã cho con em vượt qua các dãy núi thần linh để tìm kiếm tương lai cho dân tộc mình.
Phóng sự củaPhước Long