Bệnh viêm màng ngoài tim co thắt có thể dẫn tới suy tim

16-12-2019 06:30 | Bệnh thường gặp
google news

SKĐS - Viêm màng ngoài tim co thắt (VMNTCT) là tình trạng bệnh lý mà trong đó màng ngoài tim mất tính chất đàn hồi, sẹo hóa, trở thành một lớp “vỏ cứng” bao quanh các buồng tim, dẫn tới giảm sự đổ đầy các tâm thất, gây ra các triệu chứng suy tim phải và trái.

Đây là tình trạng y khoa nghiêm trọng, việc chẩn đoán chính xác càng sớm càng tốt, khi điều trị có thể ngăn ngừa tổn thương không hồi phục được.

Nguyên nhân gây VMNTCT

Nguyên nhân VMNTCT thường do các viêm mủ màng ngoài tim không được điều trị có kết quả. Các nguyên nhân gây viêm mủ ngoài tim có thể dẫn đến VMNTCT là: các bệnh collagen như: thấp khớp, viêm đa khớp dạng thấp, bệnh xơ cứng bì...; các bệnh nhiễm trùng: nhiễm khuẩn (tụ cầu vàng, cầu khuẩn màng não, liên cầu, phế cầu, cầu khuẩn lậu, lao....), nhiễm virus (virus Coxsackie A và B, virus cúm A và B, virus thủy đậu...), nhiễm nấm Histoplasmosis, nhiễm ký sinh trùng (echinococcus, amip lỵ...). Trong đó lao là nguyên nhân hàng đầu gây VMNTCT; chấn thương do phẫu thuật tim có tràn máu màng tim là yếu tố thuận lợi dẫn đến VMNTCT sau đó; sau các chiếu xạ: đây là biến chứng muộn của xạ trị dẫn đến VMNTCT; di căn ung thư đến màng ngoài tim. Tăng urê máu.

Hình ảnh viêm màng ngoài tim co thắt.

Hình ảnh viêm màng ngoài tim co thắt.

Dấu hiệu nhận dạng bệnh

Những dấu hiệu sớm của VMNTCT thường không đặc hiệu như ngất xỉu, mệt và giảm khả năng khi gắng sức. Thời gian sau đó bệnh nhân (BN) thường có các triệu chứng của suy tim trái như khó thở khi gắng sức, khó thở về đêm. Giai đoạn nặng BN sẽ thấy các dấu hiệu giống như suy tim phải: phù ngoại biên, căng tức bụng và cổ trướng. Khám thấy tĩnh mạch cổ nổi, phản hồi gan tĩnh mạch cổ dương tính. Nhiều BN có dấu hiệu mạch đảo của Kussmaul (hít sâu vào lại làm giảm độ căng to của tĩnh mạch cổ). Tuy nhiên dấu hiệu này có độ nhạy cao nhưng độ đặc hiệu thấp vì có thể gặp trong các trường hợp phì đại thất phải và nhồi máu cơ tim thất phải. Nguyên nhân của các hiện tượng này là do sự giãn nhanh của tâm thất trong thời kỳ đầu tâm trương. Nghe tim thường thấy tiếng tim mờ do màng ngoài tim dày. Tiếng đóng van hai lá và ba lá gần như xuất hiện ở cuối thì tâm trương. Có khi nghe thấy tiếng gõ của màng ngoài tim ngay ở đầu tâm trương. Tiếng này xuất hiện do sự giãn ra đột ngột của tâm thất sau một giai đoạn bị màng tim cứng hạn chế giãn. Cần phân biệt tiếng này với các tiếng tâm trương sớm khác như tiếng T3, tiếng mở van hai lá. Thường tiếng gõ màng ngoài tim có âm sắc cao hơn và đến sớm hơn tiếng T3 và tiếng mở van hai lá luôn luôn đi kèm với tiếng rung tâm trương.

Nghe phổi thường thấy giảm rì rào phế nang ở hai đáy phổi, do sung huyết phổi hay tràn dịch nhẹ ở đáy màng phổi hai bên. Trường hợp ứ trệ nhiều, có thể thấy phù phổi với các ran ẩm xuất hiện. Gan to, trường hợp nặng có thể dẫn đến xơ gan tim với bụng cổ trướng rõ. Phù hai chi dưới, sau đó có thể dẫn đến phù toàn thân. Điện tâm đồ thấy có dấu hiệu điện thế thấp lan tỏa, sóng T thường dẹt, có thể thấy dấu hiệu dày nhĩ trái và cũng hay gặp rung nhĩ phối hợp. Chụp Xquang thấy màng ngoài tim canxi hóa trên phim chụp nghiêng và hay thấy ở vị trí của thất phải và rãnh nhĩ thất; tràn dịch màng phổi là dấu hiệu hay gặp; giãn nhĩ phải và nhĩ trái; hiếm thấy phù phổi. Siêu âm tim là phương pháp hữu hiệu nhất để chẩn đoán và theo dõi tràn dịch màng ngoài tim. Có thể thấy: thành tự do thất trái dẹt; độ dày của màng ngoài tim tăng lên và có thể thấy cả dấu hiệu vôi hóa của màng ngoài tim; van động mạch phổi mở sớm; vận động nghịch của vách liên nhĩ trong thì tâm thu. Thông tim là phương pháp quan trọng để chẩn đoán phân biệt viêm co thắt màng ngoài tim và bệnh cơ tim hạn chế.

Biến chứng nguy hiểm của VMNTCT

Những dấu hiệu lâm sàng đầu tiên của VMNTCT thường không đặc hiệu như ngất xỉu, mệt và giảm khả năng khi gắng sức. Một thời gian sau, BN có các triệu chứng của suy tim trái như khó thở khi gắng sức, khó thở về đêm.

BN viêm màng ngoài tim thường cảm thấy bụng ngày càng to ra, khó thở khi gắng sức và mệt mỏi. Thể tích của bụng to ra do dịch cổ trướng tích tụ lại trong màng bụng, kèm những rối loạn tiêu hóa như đầy bụng, ăn không ngon, chậm tiêu.

Khi gắng sức, tình trạng khó thở càng tăng lên, sự khó thở của bệnh nhân VMNTCT có liên quan đến tình trạng tăng áp lực và sung huyết ở các tĩnh mạch và mao mạch phổi. Nhưng tình trạng tăng cao này không đạt tới một mức độ nguy hại có thể dẫn tới phù phổi cấp, vì thất phải bị giới hạn do chèn ép không thể tăng được lượng máu. BN có thể bị tràn dịch màng phổi một bên hoặc hai bên.

Nếu không được điều trị kịp thời, đúng cách bệnh VMNTCT sẽ chuyển sang giai đoạn nặng với các dấu hiệu giống như suy tim phải đó là phù ngoại biên, căng tức bụng và cổ trướng. Ở một số BN viêm màng ngoài tim có thể tiến triển dày, tạo sẹo và co cứng. Khi đó màng ngoài tim mất hẳn tính đàn hồi và trở nên cứng nhắc, thắt chặt xung quanh tim.

Nếu không được phẫu thuật, bệnh nhân viêm màng ngoài tim co thắt sẽ bị tàn phế và dẫn đến tử vong.

Các biện pháp điều trị bệnh

Điều trị nội khoa ở giai đoạn đầu có thể điều trị bảo tồn bằng lợi tiểu và chế độ ăn hạn chế muối. Ngoài ra điều trị nội khoa cũng được chỉ định ở các BN quá nặng không còn chỉ định mổ hay không chấp nhận nguy cơ của cuộc mổ.

Phẫu thuật cắt màng ngoài tim là phẫu thuật được lựa chọn. Trên  90% các trường hợp có cải thiện triệu chứng đáng kể sau phẫu thuật. Tỷ lệ tử vong trong và ngay sau mổ từ 5 - 20% nên cần thận trọng cân nhắc. Việc mổ sớm cho các bệnh nhân là tốt hơn chứ không đợi đến khi thể trạng BN đã bị suy sụp do bệnh diễn biến kéo dài.

Phòng bệnh cần chẩn đoán và điều trị sớm, dứt điểm các bệnh nhiễm khuẩn như lao, viêm nhiễm do vi khuẩn, virut, nấm và ký sinh trùng, các bệnh thấp tim, lupus ban đỏ, sarcoidose, ung thư vú, ung thư phổi, u sắc tố...


BS. Quang Anh
Ý kiến của bạn