Vẩy nến thể mủ là một thể nặng của bệnh vảy nến có những đặc điểm lâm sàng đặc biệt, tiến triển phức tạp hay tái phát, có thể ảnh hưởng đến tính mạng của bệnh nhân.
Nhiều dạng vẩy nến thể mủ
Bệnh vẩy nến thể mủ được chia làm hai nhóm chính là khu trú và lan tỏa. Vẩy nến thể mủ khu trú ở lòng bàn chân, lòng bàn tay và có khuynh hướng tiến triển mạn tính (thể Barber); viêm da đầu chi liên tục của Hallopeau. Vẩy nến thể mủ lan tỏa, thương tổn lan rộng toàn thân, tiến triển bán cấp đến cấp tính, có thể khởi phát đột ngột đe dọa tính mạng bệnh nhân gồm: toàn thân cấp tính (thể Von Zumbusch); bệnh ở phụ nữ mang thai (chốc dạng herpes - Impetigo Herpetiforme); bệnh ở thanh thiếu niên; dạng vòng cung, dạng đồng tiền, dạng dải.
Tổn thương vẩy nến thể mủ toàn thân cấp tính.
Biểu hiện của vẩy nến thể mủ
Có khoảng 25 - 30% bệnh nhân bị vẩy nến thể mủ trước đó đã bị vẩy nến thể thông thường. Những người mắc các bệnh nhiễm khuẩn đường hô hấp trên do liên cầu β tan huyết nhóm A; phụ nữ có thai; tác dụng của ánh sáng mặt trời, bỏng nắng và stress cũng có thể gây vẩy nến thể mủ. Bệnh toàn thân cấp tính Von Zumbusch: thường sốt nhẹ kéo dài một ngày hoặc lâu hơn trước khi có thay đổi rõ ràng trên da hoặc thấy đau rát ở vùng da sắp xuất hiện thương tổn. Thương tổn đặc trưng của bệnh là dát đỏ, nề, trên có những mụn mủ vô khuẩn. Dát đỏ xuất hiện đột ngột, tiến triển nhanh trong vòng 1 ngày, da trở nên đỏ rực như bỏng lửa, căng nề. Thương tổn lan nhanh thành đám rộng, vùng nếp gấp, sinh dục có nhiều thương tổn. Bệnh có thể tiến triển tới đỏ da toàn thân nhưng mặt và lòng bàn tay, lòng bàn chân thường không bị tổn thương. Mụn mủ: trên nền dát đỏ, trong vòng vài giờ, xuất hiện các mụn mủ kích thước rất nhỏ khoảng một vài milimet, rất nông, màu trắng sữa, mọc thành đám hoặc rải rác. Mụn mủ phẳng hoặc gồ cao, xung quanh có quầng đỏ sẫm. Có thể có nhiều mụn mủ liên kết với nhau thành “hồ mủ” đường kính rộng 1 - 2cm. Sau vài ngày mụn mủ xẹp, chuyển sang giai đoạn bong vảy kéo dài một đến nhiều tuần, sau đó đỏ da nhạt dần rồi trở lại bình thường. Mụn mủ mọc thành từng đợt, mỗi đợt cách nhau vài giờ đến vài ngày, một số trường hợp có thể dai dẳng vài tuần. Khi các mụn mủ cải thiện thì các triệu chứng toàn thân thường giảm và hết.
Trong thời gian mụn mủ xuất hiện, bệnh nhân sốt cao có thể đến 40°C, nhức đầu, rét run, thể trạng suy sụp, mạch nhanh, thở nhanh nhưng không có thương tổn nội tạng. Hạch có thể có trước hoặc trong khi nổi mụn mủ. Tỷ lệ tử vong cao nếu bệnh nhân không được điều trị tích cực.
Các thương tổn khác gồm: móng tay móng chân dày, loạn dưỡng, phổ biến tình trạng làm mủ dưới móng và tách móng; viêm khớp; tổn thương niêm mạc...
Xét nghiệm thấy: Bạch cầu tăng, nhất là bạch cầu đa nhân trung tính, có thể tăng đến 32.000. Giảm albumin máu. Men gan tăng như phosphatase kiềm, transaminase và tăng bilirubin. Giảm thanh thải creatinin, có thể bị suy thận do hoại tử ống cấp gặp trong thể lan tỏa. Mụn mủ thường vô khuẩn hoặc chỉ nhiễm tụ cầu, liên cầu.
Các cách chữa trị
Thuốc có thể dùng là: steroids toàn thân đặc biệt là trường hợp mắc bệnh nặng có viêm khớp vì thuốc có tác dụng nhanh kể cả triệu chứng viêm khớp, nhưng đó chỉ là tác dụng tạm thời. Mặt khác, steroids đã được xác định là có liên quan đến khởi phát vẩy nến thể mủ, đặc biệt là sau khi ngừng điều trị thì bệnh tái phát nặng hơn, còn gọi là hiện tượng “bật bóng”. Vì vậy, việc sử dụng steroids trong điều trị cần phải rất thận trọng. Methotrexat và một số thuốc ức chế miễn dịch khác: các nghiên cứu đã cho thấy điều trị bằng methotrexat kết quả thường chậm nhưng tiên lượng lâu dài lại tốt hơn so với steroids. Tuy dùng methotrexat bệnh vẫn có thể tái phát khi dừng thuốc, nhưng không thấy hiện tượng bệnh tăng nặng như dùng các steroids. Vitamin A được đánh giá là có tác dụng tốt trong điều trị vẩy nến thể mủ, nhưng cần lưu ý không được dùng cho trẻ dưới 12 tuổi.
Mỗi thuốc điều trị bệnh vẩy nến thể mủ đều có những ưu điểm và hạn chế. Mức độ nặng và đáp ứng với điều trị tương đối khác nhau ở các bệnh nhân. Hiểu biết về hiệu quả và phản ứng phụ của các thuốc trước khi bắt đầu điều trị là rất cần thiết.
Biện pháp quang trị liệu (PUVA) có tác dụng ức chế tổng hợp AND của tế bào ở thượng bì, giảm số lượng tế bào trình diện kháng nguyên hoặc tế bào langerhans và giảm khả năng trình diện kháng nguyên của chúng. Ức chế sản xuất cytokine từ tế bào lympho T và ức chế phóng thích các chất trung gian hóa học.
ThS. Nguyễn Thị Thu Hà