Bệnh sán lá gan lớn

12-06-2009 10:43 | Tin nóng y tế
google news

Hầu hết các bệnh do giun, sán gây nên đều có mối liên quan chặt chẽ tới đường tiêu hoá. Nói cách khác căn nguyên gây bệnh thường qua đường ăn uống mà xâm nhập vào cơ thể và gây bệnh.

Hầu hết các bệnh do giun, sán gây nên đều có mối liên quan chặt chẽ tới đường tiêu hoá. Nói cách khác căn nguyên gây bệnh thường qua đường ăn uống mà xâm nhập vào cơ thể và gây bệnh. Bệnh sán lá gan lớn cũng có chung đặc điểm nói trên. Tuy nhiên chỉ riêng tên gọi cũng đã cho người ta có sự phân biệt với bênh sán lá gan nhỏ. Bệnh có một số đặc điểm tương đối khác biệt như mô tả dưới đây.

Căn nguyên gây bệnh

Fasciola hepatica (F.hepatica) và Fasciola gigantica (F.gigantica) là hai căn nguyên gây bệnh sán lá gan lớn. Trong khi F.hepatica chủ yếu phân bố ở châu Âu, châu Mỹ, Đông Nam châu Phi và Nhật Bản thì F.gigantica lại chủ yếu phân bố ở châu Phi, Đông Nam Á, Ấn Độ và khu vực quần đảo Hawaii. Đây là loại sán có kích thước lớn nhất trong họ sán lá, chiều dài từ 2-3cm, chiều rộng khoảng 1cm  (có lẽ đây là lý do chính để gọi là sán lá gan lớn).

 Sán lá gan lớn.
Đường lây truyền bệnh sán lá gan lớn

Về bản chất có thể gọi đây là loại bệnh của các loài động vật ăn cỏ (còn gọi là động vật nhai lại) như trâu, bò, dê, cừu, hươu... (gọi là vật chủ cuối cùng  hay vật chủ chính); còn người và một số động vật khác  như lợn, chó, mèo là các đối tượng không may mắc bệnh (tạm gọi là vật chủ không may hoặc vật chủ không thường xuyên).  Nghiên cứu chu kỳ gây bệnh, chúng ta sẽ hiểu tại sao người lại có thể mắc bệnh sán lá gan lớn.

Trứng sán có trong đường mật của vật chủ chính. Sau đó trứng được đào thải ra ngoài theo phân dưới dạng trứng chưa trưởng thành. Ở bên ngoài, trứng chưa trưởng thành cần phải có môi trường nước để tiếp tục phát triển và hoàn thiện chu kỳ. Trong môi trường nước, trứng sán tiếp tục phát triển thành phôi, sau đó tự giải phóng ra ngoài dưới dạng  ấu trùng lông (trong điều kiện thời tiết mùa hè thích hợp thời gian này mất khoảng 2 tuần). Trùng lông di chuyển trong nước, tìm đến và xâm nhập vào vật chủ trung gian thích hợp là các loài ốc. Ở trong ốc, ấu trùng lông phát triển qua các giai đoạn thành bào ấu trùng và ấu trùng. Để tiếp tục chu kỳ các ấu trùng của sán lá gan lớn rời khỏi ốc bám vào bề mặt của các cây thủy  sinh như các loại rau, cỏ... Ấu trùng có ở bề mặt của các cây thủy sinh là giai đoạn có khả năng gây bệnh của sán lá gan lớn. Lúc này các loại động vật ăn cỏ ăn phải cỏ có chứa ấu trùng hoặc người không may ăn phải các loại rau, củ thủy sinh có chứa ấu trùng thì sẽ mắc bệnh sán lá gan lớn. Điểm khác biệt của sán lá gan lớn so với sán lá gan nhỏ và một số loại sán lá khác là có thể "phát huy" vai trò gây bệnh ngay sau khi thoát ra khỏi vật chủ trung gian thứ nhất là ốc chứ không đòi hỏi phải có vật chủ trung gian thứ hai.

Sau khi xâm nhập qua đường miệng, ấu trùng tới ruột non và thoát vỏ. Từ đây ấu trùng xâm nhập vào các khoang của cơ thể bằng cách xuyên qua thành ruột và nhập vào đường mật bằng cách xuyên qua nhu mô gan. Đôi khi ấu trùng tới gan bằng đường máu hoặc đường bạch huyết ở thành ruột. Ngoài gan và đường mật, ấu trùng sán lá gan lớn còn có thể xâm nhập vào phổi, tử cung, hoặc một số tổ chức liên kết. Khi đã tới được các cơ quan hay tổ chức, ấu trùng sẽ phát triển thành sán trưởng thành gây bệnh, đẻ trứng để bắt đầu chu kỳ tiếp theo.

Đặc điểm tổn thương và các biểu hiện của bệnh

Khi xâm nhập vào gan, sán lá gan lớn gây nên các tổn thương ở gan rất nặng nề mà hậu quả là chảy máu và hình thành sẹo. Sau khi sán đã xâm nhập vào đường mật, cùng với các tổn thương cơ học, các hiệu ứng của độc tố sẽ làm cho thành ống mật dày lên, đường mật giãn, tổ chức gan tổn thương thoái hóa và cuối cùng là dẫn đến xơ gan.

Ở giai đoạn sớm và trong trường hợp số lượng sán trong đường mật chưa có nhiều, các biểu hiện của bệnh sán lá gan lớn thường ít được chú ý. Các biểu hiện có thể gặp là đau vùng thượng vị, sốt, nôn, tiêu chảy, ngứa. Người bệnh có thể thấy các biểu hiện này kéo dài trong vòng vài tháng. Giai đoạn sau là các biểu hiện của tình trạng viêm túi mật hoặc áp-xe gan. Xét nghiệm máu lúc này thường có hình ảnh của một tình trạng nhiễm khuẩn với bạch cầu ưa axít tăng cao.

Chẩn đoán và điều trị

Khi người bệnh có các biểu hiện của một tình trạng nhiễm khuẩn, viêm túi mật, áp-xe gan như đã mô tả đồng thời lại có ăn rau sống, rau tái đặc biệt là ở trong vùng đang có bệnh lưu hành thì bệnh sán lá gan lớn là một bệnh cần phải nghĩ tới. Ngoài tổn thương ở gan, các tổn thương ở cơ quan khác cũng phải được quan tâm. Các xét nghiệm để hỗ trợ chẩn đoán là tìm trứng sán trong phân hoặc trong dịch tá tràng. Xét nghiệm miễn dịch và hình thái có giá trị trong chẩn đoán.

Praziquantel và các biệt dược  có tác dụng điều trị các loại sán khác rất tốt nhưng không có hiệu quả mấy trong điều trị sán lá gan lớn. Thuốc được lựa chọn trong điều trị sán lá gan lớn hiện nay là triclabendazol hoặc bithionol. Tốt nhất là khi đã thấy các biểu hiện nghi ngờ, người bệnh cần đến các cơ sở y tế chuyên khoa để được tư vấn, xét nghiệm và điều trị.

Phòng bệnh

Bởi vì ốc là vật chủ trung gian và ăn rau sống  hay ăn phải các loại cây thủy sinh là căn nguyên mắc bệnh nên biện pháp dự phòng đơn giản nhất là không ăn rau sống, các loại rau, cây thủy sinh, đặc biệt trong vùng đang có bệnh lưu hành. Biện pháp dự phòng áp dụng trong cộng đồng là quản lý, xử lý tốt phân của gia súc. Tiến hành tiêu diệt ốc trên diện rộng khi có dịch bệnh lưu hành.

BS. Nguyễn Thọ


Ý kiến của bạn