Bệnh quai bị có chữa được không?

28-02-2020 18:27 | Đời sống
google news

SKĐS - Con tôi, năm nay 12 tuổi, bị sưng hai bên hàm, đi khám bác sĩ chẩn đoán là quai bị, chẳng cho thuốc gì ngoài thuốc giảm đau hạ sốt, vitamin… Tôi có hỏi bác sĩ thuốc nào là đặc trị, bác sĩ nói hiện tại chưa có thuốc đặc trị, nên bản thân rất lo lắng. Vậy tôi xin hỏi quai bị có chữa được không?

(Thái Thị B. N. - Cần Thơ)

Bệnh quai bị do virút  có tên khoa học là Paramyxovirus gây nên, bệnh chỉ xuất hiện ở người, thường gặp ở trẻ em dưới 15 tuổi, nhất là trẻ từ 6 - 10 tuổi. Bệnh thường phát vào mùa đông xuân, khi thời tiết bắt đầu chuyển lạnh. Bệnh xuất hiện ở những nơi đông người như nhà trẻ, trường học, ký túc xá, khu tập thể… Bệnh lây lan chủ yếu qua đường hô hấp do nước bọt bị nhiễm trùng khi người bệnh nói chuyện, ho hoặc hắt hơi; trong nước bọt của người bị bệnh quai bị, bệnh có thể lây cho người tiếp xúc ở một tuần trước đó khi tuyến mang tai chưa sưng và kéo dài 2 tuần sau khi thấy sưng tuyến mang tai, thời gian lây mạnh nhất vào khoảng 2 ngày trước khi viêm tuyến mang tai.

Về triệu chứng, sau thời gian ủ bệnh từ 15 - 21 ngày, virút phát triển ở niêm mạc miệng sau đó xâm nhập vào máu gây viêm các cơ quan. Viêm tuyến mang tai là thể  điển hình nhất, trẻ sốt 38 - 390C, nhức đầu, mệt mỏi, ăn ngủ kém; viêm và sưng tuyến mang tai, da căng phồng lên, không đỏ, đau, miệng khô và khó nuốt. Có khi viêm cả tuyến nước bọt dưới hàm, dưới lưỡi, lỗ ống Stenon ở niêm mạc má 2 bên sưng đỏ, có khi có giả mạc, thường 4 - 5 ngày sau hết thì sốt, sưng đau, giảm dần và khỏi.

Bệnh quai bị ở người lớn thường nặng và có nhiều biến chứng hơn ở trẻ em. Có thể có các biến chứng sau viêm tinh hoàn và mào tinh hoàn, biến chứng này thường xảy ra sau đợt viêm tuyến mang tai thì xuất hiện tinh hoàn sưng to, đau, mào tinh căng phù như một sợi dây thừng, tình trạng viêm và sốt có thể kéo kéo dài. Có khoảng 1/3 trường hợp dẫn đến teo tinh hoàn và có thể dẫn đến tình trạng  vô sinh sau này. Viêm buồng trứng ở bé gái thường gặp ở tuổi dậy thì, ít để lại di chứng vô sinh. Biến chứng viêm tụy là một biểu hiện nặng của quai bị, bệnh nhân bị đau bụng nhiều, ói, có khi tụt huyết áp. Ngoài ra cũng có thể gặp một số biến chứng khác như tổn thương thần kinh, viêm cơ tim, viêm tuyến giáp, viêm tuyến lệ, viêm thần kinh thị giác, viêm phế quản, viêm phổi, rối loạn chức năng gan, xuất huyết do giảm tiểu cầu…

Về điều trị, hiện nay quai bị chưa có thuốc đặc trị, mà chủ yếu là điều trị triệu chứng và nâng đỡ cơ thể, nằm nghỉ tuyệt đối khi có sưng tinh hoàn, cần cách ly bệnh nhân ít nhất 10 - 15 ngày từ khi phát hiện bệnh, vệ sinh răng miệng, ăn lỏng, giảm đau và hạ sốt bằng Paracetamol. Trường hợp viêm tinh hoàn, cần mặc quần lót nâng tinh hoàn để giảm đau và  dùng corticoid liều cao ngay từ đầu, thường dùng Prednisolon 60mg/ ngày, sau đó giảm dần trong 7 - 10 ngày.

Về phòng bệnh, điều trước tiên là người bệnh phải được cách ly tại nhà, không đi học, hạn chế tiếp xúc với người bệnh, khi tiếp xúc phải mang khẩu trang. Thời gian cách ly người bệnh trong khoảng 10 ngày kể từ khi bắt đầu sưng tuyến mang tai. Ở trường học, khi phát hiện trẻ mắc bệnh quai bị thì cần cho nghỉ học ngay để tránh lây cho học sinh khác. Tăng cường sức khỏe bằng ăn uống đầy đủ chất dinh dưỡng và nghỉ ngơi hợp lý. Cần đến khám tại các cơ sở y tế ngay khi có biểu hiện bệnh. Ngày nay, được tiêm phòng để tạo miễn dịch chủ động như dùng vắcxin Trimovax hay MMR, nhưng không nên tiêm cho trẻ dưới 1 tuổi. Tuy nhiên, nếu trẻ sống trong môi trường dịch bệnh, có thể tiêm ngừa từ 9 tháng tuổi, không tiêm phụ nữ có thai, người bị dị ứng với vắcxin, người đang dùng thuốc gây suy giảm miễn dịch như corticoid, thuốc điều trị ung thư, người đang điều trị với tia phóng xạ… Vắcxin được tiêm  từ 12 tháng tuổi, tiêm 2 lần, lần thứ nhất  lúc 1 tuổi và chích nhắc lại sau  4 - 12 tuổi. Trường hợp cần thiết tiêm cho trẻ lúc 9 tháng tuổi, thì phải tiêm 3 lần, lần thứ nhất lúc 9 tháng, lần thứ 2 cách mũi thứ nhất là sáu tháng và  lần thứ 3 sau  4 - 12 tuổi.

Bệnh quai bị hiện nay ở nước ta vẫn còn phổ biến. Bệnh chưa có thuốc đặc trị, để lại nhiều di chứng nặng nề cho trẻ em cũng như người lớn, nam cũng như nữ. Vì vậy, việc tạo ra một ý thức cho các bậc cha mẹ để phòng bệnh cho trẻ em, một thế hệ tương lai, có một ý nghĩa hết sức quan trọng.


BS.CKI. TRẦN QUỐC LONG
Ý kiến của bạn