Trực tràng nằm ở cuối đại tràng tiếp giáp với hậu môn. Polyp trực tràng là những khối u lồi vào trong lòng trực tràng, chúng được hình thành do sự tăng sinh quá mức của niêm mạc trực tràng, là sự phì đại của biểu mô tuyến quanh một trục liên kết mạch ở trực tràng. Polyp trực tràng là một bệnh rất thường gặp ở người trưởng thành. Bệnh gây nhiều phiền toái trong cuộc sống, nguy hiểm hơn có thể gây biến chứng nếu không phát hiện và chữa trị sớm.
Nguyên nhân là gì?
Có thể do đột biến gene làm phát triển tế bào không bình thường tạo thành polyp hoặc có thể do di truyền hoặc do viêm nhiễm niêm mạc trực tràng bởi vi khuẩn hoặc do ký sinh trùng. Có đến 90% polyp trực tràng gặp ở người từ 50 tuổi trở lên. Bên cạnh đó có khá nhiều yếu tố nguy cơ dẫn đễn mắc polyp trực tràng, đó là tuổi càng cao tỷ lệ gặp polyp trực tràng càng nhiều, nam gặp nhiều hơn nữ, các thói quen hút thuốc, nghiện rượu bia hoặc do chế độ ăn không hợp lý (ăn nhiều chất béo, ăn ít chất xơ, ăn nhiều loại thịt có màu đỏ) hoặc do béo phì kèm theo lười hoặc ít vận động cơ thể hoặc trong cuộc sống đã từng mắc bệnh viêm đại, trực tràng mạn tính. Một số trường hợp đã từng bị ung thư buồng trứng (nữ giới) hoặc đã từng cắt bỏ polyp đại tràng.
Trực tràng là đoạn cuối của đại tràng, tiếp giáp với hậu môn.
Bệnh polyp trực tràng có biểu hiện gì?
Triệu chứng của bệnh thường nghèo nàn và không đặc hiệu. Đi ngoài phân có máu tươi là dấu hiệu thường gặp nhất, vì vậy, đây là dấu hiệu có giá trị gợi ý chẩn đoán polyp trực tràng. Máu phủ ngoài mặt phân không trộn lẫn với phân (phân có khuôn). Khi polyp trực tràng có cuống tương đối dài có thể bị sa ra ngoài hậu môn khi đi ngoài, nếu polyp nhỏ, ở thấp gần hậu môn có thể tự lên hoặc dùng tay đẩy lên, tuy vậy, đôi khi bị tắc nghẽn trong hậu môn.
Để chẩn đoán polyp trực tràng, có thể xét nghiệm phân để tầm soát polyp và ung thư trực tràng bằng cách tìm máu ẩn trong phân hoặc xét nghiệm ADN.
Chụp Xquang có thuốc cản quang là phương pháp thông dụng có thể phát hiện được polyp hay khối u trực tràng nhưng dễ bỏ sót những polyp nhỏ. Chụp cắt lớp vi tính (CT scanner) cũng có thể phát hiện polyp hoặc khối u đại trực tràng. Tuy vậy, nội soi trực tràng vẫn là phương pháp chính xác nhất để phát hiện polyp hay u và có thể sinh thiết để xác định u lành hay u ác tính.
Biến chứng do polyp trực tràng
Nguy cơ thoái hóa trở thành ác tính của polyp trực tràng tùy thuộc vào kích thước của chúng. Nếu các polyp có đường kính không quá 5mm, ít có nguy cơ phát triển thành ung thư, nhưng khi polyp có đường kính trên 20mm, kéo dài khoảng 10 năm, nguy cơ trở thành ung thư là rất lớn (chiếm tới 50%). Tuy vậy, những polyp đơn độc có thể là những khối u hoàn toàn lành tính và tồn tại trong nhiều năm mà không ảnh hưởng gì đến sức khỏe. Những polyp có chân rộng, không có cuống hoặc càng có nhiều polyp, khả năng ung thư hóa càng cao hơn những polyp có chân nhỏ hay cuống dài.
Một biến chứng khác là khi polyp trực tràng quá lớn hoặc nhiều polyp hoặc có viêm loét bề mặt polyp, có thể gây đi ngoài khó hoặc đau buốt khi đi ngoài.
Điều trị
Việc phát hiện sớm và điều trị kịp thời, đặc biệt các trường hợp nhiều polyp hoặc polyp có kích thước lớn trên 5mm nên loại bỏ càng sớm càng tốt, giảm thiểu đáng kể nguy cơ polyp trở thành ung thư. Hiện nay chưa có thuốc đặc hiệu để điều trị, vì vậy, khi polyp có kích thước lớn hoặc nhiều polyp hoặc polyp có biến chứng, đặc biệt là loại chân rộng, không có cuống cần được loại bỏ càng sớm càng tốt bằng kỹ thuật mổ nội soi. Một số nhà chuyên môn khuyến cáo rằng, nếu polyp tuyến thường hay có tỷ lệ tái phát cao, vì vậy, sau cắt polyp trực tràng khoảng 3-5 năm nên nội soi để kiểm tra lại.
Lời khuyên của bác sĩ
Khi có các triệu chứng như đã nêu trên, nhất là đi ngoài ra máu ở người cao tuổi, nên đến cơ sở y tế để được khám và xác định bệnh, không nên chủ quan xem thường.
Cần có chế độ ăn hợp lý tránh ăn nhiều chất béo, thịt đỏ (thịt trâu, thịt bò, thịt chó) và trong các bữa ăn hằng ngày nên ăn nhiều hơn các loại rau, quả và ngũ cốc. Không nên uống nhiều rượu, bia, với người cao tuổi tốt nhất là không uống rượu, bia, nhất là những người có sẵn bệnh huyết áp, tim mạch, bệnh đường tiêu hóa, đái tháo đường.