Kết quả cho thấy, bệnh nhân cải thiện ngoạn mục cả trên lâm sàng và trên kết quả chụp CT scan kiểm tra.
Ca bệnh đặc biệt
Bệnh nhân là ông T.Q.C (67 tuổi) có tiền căn lao phổi cũ hơn 10 năm và không hút thuốc lá. Trước nhập viện khoảng 1 tuần bệnh nhân xuất hiện triệu chứng yếu nửa người trái, nhức đầu nhẹ, không cảm giác buồn nôn, không nôn ói. Yếu nửa người trái tăng dần nên bệnh nhân nhập viện Bệnh viện Nhân dân 115.
Qua thăm khám bệnh nhân cho thấy: Bệnh tỉnh tiếp xúc tốt, sinh hiệu ổn, tổng trạng trung bình. Khám thần kinh cơ: yếu nửa người trái, sức cơ chi trên - chi dưới 3-4/5, bệnh nhân di chuyển bằng xe lăn. Khám hạch ngoại biên: hạch thượng đòn trái, đường kính 2cm, cứng, không đau, di động kém.
Sau khi cho kiểm tra, kết quả CT scan sọ - não cản quang (lúc nhập viện): vài khối choán chỗ bán cầu não phải, kèm tình trạng phù não quanh tổn thương. CT scan ngực cản quang (lúc nhập viện): u phổi phải, đường kính 3cm, bắt thuốc cản quang. Tế bào học (FNA) hạch thượng đòn trái: tế bào học ác tính loại tuyến di căn hạch...Bệnh nhân được chẩn đoán: Ung thư phổi không tế bào nhỏ T1bN3M1b - giai đoạn IV- biểu mô tuyến - EGFR ( ).
Hình CT scan sọ não cản quang của bệnh nhân lúc nhập viện.
Áp dụng điều trị liệu pháp nhắm trúng đích
Các bác sĩ đã cho bệnh nhân được điều trị liệu pháp nhắm trúng đích TKI: Erlotinib 150mg/ngày. Diễn tiến tình trạng bệnh nhân cải thiện tốt hơn, cụ thể như sau:
Tình trạng bệnh nhân sau 1 tháng điều trị liệu pháp nhắm trúng đích như sau: Sau 1 tháng uống erlotinib 150mg/ngày các triệu chứng lâm sàng đã cải thiện ngoạn mục, bệnh nhân không còn nhức đầu, tự đi lại được và tiếp tục được điều trị. Kết quả chụp CT scan sọ não và ngực có cản quang đã giải thích vì sao đáp ứng lâm sàng ngoạn mục, các tổn thương di căn não và tổn thương tại phổi đã thuyên giảm kích thước hơn 90% chỉ sau 1 tháng điều trị. Tình hình bệnh nhân sau đó tiếp tục ổn định, chất lượng sống của bệnh nhân cải thiện nhiều.
Chia sẻ về vấn đề này, BSCKII. Nguyễn Thiện Nhân - Khoa Ung bướu Y học hạt nhân Bệnh viện Nhân dân 115 cho biết, khi điều trị bệnh nhân có một số điểm cần lưu ý như sau: Về mặt chẩn đoán: khi được chẩn đoán ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn tiến xa tại chỗ tại vùng (giai đoạn IIIA không phẫu thuật được hay IIIB) hoặc giai đoạn di căn xa (giai đoạn IV) thì ngoài kết quả mô bệnh học (Giải phẫu bệnh) cần phải có thì bệnh nhân cần phải được thực hiện xét nghiệm sinh học phân tử (tìm đột biến gene EGFR).
Xét nghiệm sinh học phân tử (tìm đột biến gene EGFR) nên thực hiện ở tất cả các bệnh nhân có kết quả mô bệnh học là loại tế bào không vẩy. Đối với nhóm bệnh nhân có mô bệnh học là loại tế bào vẩy chỉ thực hiện xét nghiệm này khi: bệnh nhân không bao giờ hút thuốc lá hay hút rất ít hoặc mẫu bệnh phẩm quá nhỏ.
Về mặt điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ tiến xa tại chỗ tại vùng hay di căn xa nếu có đột biến gene chủ đạo EGFR nhạy với nhóm thuốc nhắm đích TKI thì đơn trị liệu như Erlotinib, Gefitinib, Afatinib là những hoạt chất đã được chứng minh mang lại lợi ích sống còn, tỷ lệ đáp ứng điều trị và chất lượng sống hơn hẳn hóa trị liệu tiêu chuẩn trước đây.
Được biết, ung thư phổi di căn não là một trong những căn bệnh nguy hiểm nhất. Một vài thống kê cho thấy, các trường hợp bị ung thư phổi sau đó bị di căn lên não chiếm khoảng 40%. Vào giai đoạn này được coi là ung thư phổi giai đoạn cuối. Bệnh lúc này là vô cùng nguy hiểm và khó điều trị. Khi các tế bào ung thư phổi di căn, lây lan và phát triển trên não hình thành khối u ở trên não. Lúc này chúng được gọi là ung thư phổi di căn não và không được gọi là ung thư não.
Hay có thể nói theo một cách khác đó là: Khi bạn bị ung thư phổi di căn não nếu lấy mẫu tế bào ung thư trong não, nó được gọi là tế bào ung thư phổi trong não, chứ không phải là tế bào ung thư não.
Ung thư phổi di căn não tuy nguy hiểm nhưng nếu tuân thủ đúng theo các phác đồ điều trị của bác sĩ cũng như có biện pháp hỗ trợ kịp thời thì người bệnh hoàn toàn có khả năng kéo dài thời gian sống cho mình.