Tỷ trọng người bệnh nội trú BHYT tại tuyến tỉnh có xu hướng tăng cách biệt hơn so với tuyến huyện
Ông Lê Văn Phúc, Trưởng Ban Thực hiện chính sách BHYT (BHXH Việt Nam) cho biết, dịch COVID-19 làm ảnh hưởng đến số lượng người dân đi khám chữa bệnh (KCB) BHYT. Cụ thể, năm 2019 có hơn 184,5 triệu lượt người KCB BHYT thì năm 2020 còn hơn 168 triệu lượt (giảm 8,9% so với năm 2019); năm 2021 còn hơn 126,8 triệu lượt (giảm 24.5% so với năm 2020).
Trong đó, khu vực Tây Nguyên Đông Nam Bộ và Đồng bằng Sông Cửu Long có tỷ lệ giảm mạnh nhất với lượt KCB chung giảm tương ứng là: 52%, 46%; Khu vực Trung du và miền núi phía Bắc có số lượt giảm ít nhất với lượt KCB chung giảm 15,3%.
Tỷ lệ nhập viện nội trú, số ngày điều trị bình quân chung của toàn quốc vẫn có xu hướng tăng, như: Tỷ lệ nội trú KCB BHYT trên tổng lượt KCB BHYT năm 2019, 2020, 2021 lần lượt là: 9,3%; 9,2%; 9,8%. Ngày điều trị bình quân trong năm 2019, 2020, 2021 lần lượt là: 6,4; 6,4; 6,6.
Về chi phí bình quân/lượt điều trị, mặc dù chi KCB BHYT giảm do số người đi khám điều trị giảm khá lớn song chi phí bình quân ở tuyến trên luôn cao hơn tuyến dưới, năm trước thường cao hơn năm sau.
Giai đoạn 2020-2021, do ảnh hưởng của dịch bệnh, chi phí bình quân của nội trú lại có xu hướng giảm nhẹ. Tuy nhiên, có đến 69% cơ sở y tế tuyến tỉnh có chi phí bình quân BHYT cho người bệnh nội trú tăng hơn năm 2020.
Đáng chú ý, một số cơ sở có chi phí bình quân nội trú tăng gấp đôi như Bệnh viện Y học cổ truyền TP Hồ Chí Minh, Bệnh viện Đa khoa Vạn Hạnh TP Hồ Chí Minh, Bệnh viện Tim mạch TP Cần Thơ...
Về tình hình điều trị nội trú và tác động của chính sách thông tuyến tỉnh, ông Lê Văn Phúc cho biết, quý I/2022, tỷ trọng người bệnh nội trú tại tuyến tỉnh có xu hướng tăng cách biệt hơn so với tuyến huyện (tuyến Trung ương: 5,1%; tuyến tỉnh: 52,6%; tuyến huyện: 42,3%).
Nguyên nhân được chỉ ra là có thể do người bệnh đã được cung cấp thông tin nhiều hơn về quyền lợi khi đi KCB thông tuyến tỉnh; thói quen đi KCB đã dần trở lại khi dịch bệnh đã dần ổn định và người dân đã được tiêm vaccine phòng COVID-19.
Người dân dễ dàng được khám chữa bệnh BHYT tại các cơ sở y tế tuyến trên theo yêu cầu
Sau 1 năm thực hiện thông tuyến KCB BHYT tuyến tỉnh, ông Lê Văn Phúc cũng phân tích, so sánh tỷ lệ nội trú giữa các tuyến cho thấy tỷ lệ nội trú trong năm 2021 ở các cơ sở y tế tuyến tỉnh có xu hướng tăng rõ rệt hơn các tuyến khác, đặc biệt ở khu vực Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung và khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long.
Bên cạnh đó, với sự thuận lợi từ quy định "thông tuyến tỉnh" tỷ lệ số người tự KCB nội trú trái tuyến của năm 2021 tại tuyến tỉnh của toàn quốc đã tăng hơn 73% so với năm 2020, trong khi số lượt nội trú trái tuyến tại tuyến Trung ương giảm 25%.
So sánh tỷ trọng lượt nội trú trái tuyến trong tổng lượt nội trú của hai năm 2021-2020 cho thấy sự gia tăng số lượt đi KCB trái tuyến tại tuyến tỉnh tăng cao ở tất cả các vùng (trừ khu vực Đông Nam Bộ có xu hướng giảm nhẹ), trong đó khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc tăng hơn 300%; khu vực Đồng Bằng Sông Hồng, Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung tăng trên dưới 100%.
Khảo sát tại 194 bệnh viện cho thấy nhiều cơ sở luôn duy trì tỷ lệ điều trị nội trú cực cao, tới 95-100% liên tục trong hai năm.
Nhìn chung, 3 tháng đầu năm 2022, số lượt nội trú trái tuyến trong tổng số lượt nội trú tại tuyến tỉnh của toàn quốc và tất cả các vùng kinh tế - xã hội tiếp tục có xu hướng gia tăng so với cùng kỳ năm trước (toàn quốc 3 tháng đầu năm 2022 là 32,6%, tăng 5,2% so với cùng kỳ năm 2021).
Ông Lê Văn Phúc nhấn mạnh, điều đáng nói có nhiều bệnh có thể điều trị ở tuyến huyện nhưng bệnh nhân vãn vượt tuyến lên tỉnh để điều trị. Cụ thể như đẻ ngôi thường; Đục thủy tinh thể ở người già; Đau vùng cổ gáy, Viêm ruột thừa, Viêm phế quản...
Theo phân tích của ông Phúc, có thể thấy, sau hơn 1 năm thực hiện chính sách thông tuyến BHYT tuyến tỉnh, người dân dễ dàng tiếp cận dịch vụ y tế chất lượng cao, được khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế tuyến trên theo yêu cầu, được hưởng quyền lợi điều trị nội trú BHYT như đi khám đúng tuyến, giảm thời gian làm thủ tục chuyển tuyến.
Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn bất cập là người dân vào viện khi chưa thực sự cần thiết, tăng chi từ tiền túi do chi phí bình quân tại cơ sở y tế tuyến trên cao, chi phí đồng chi trả nội trú nhiều hơn; nguy cơ quá tải cơ sở KCB tuyến tỉnh…
Mặt khác sẽ ảnh hưởng đến chính sách quản lý KCB của Nhà nước và nguồn lực KCB BHYT vì chỉ số thống kê y tế không phản ánh đúng nhu cầu KCB, mô hình bệnh tật của Việt Nam (như: tỉ lệ bệnh nhân nội trú…); gia tăng chi phí từ quỹ BHYT.
Ông Lê Văn Phúc cho hay, xu thế của thế giới là tăng điều trị ngoại trú hoặc từ tuyến dưới, chăm sóc sức khỏe ban đầu để giảm mọi chi phí về sau chứ không phải tập trung điều trị nội trú. Việt Nam thì ngược lại, tỷ trọng giữa điều trị nội và ngoại trú năm 2020 là 60/40 và giờ chênh lệch tới 70/30, trong khi những năm trước đó tỷ lệ là 50/50.