Tại Hội thảo Ung thư vú Việt-Pháp năm 2017 diễn ra từ ngày 26- 28/4 tại BV K với sự tham gia của các chuyên gia đầu ngành về ung thư vú đến từ Pháp và Việt Nam, PGS.TS Trần Văn Thuấn- giám đốc BV K cho biết, ung thư vú nói riêng và ung thư nói chung đang có xu hướng gia tăng và trở thành gánh nặng cho gia đình, xã hội.
Có những trường hợp ung thư vú ở tuổi 20-25
Theo báo cáo của ghi nhận ung tư toàn cầu (GLOBOCAN) năm 2012 trên thế giới có 14,1 triệu trường hợp mắc mới và 8,2 triệu ca tử vong do ung thư và 32,6 triệu người hiện đang sống cùng bệnh ung thư (trong vòng 5 năm sau chẩn đóan).
Tại Việt Nam, số người mắc bệnh ung thư có xu hướng ngày một gia tăng và trở thành gánh nặng cho xã hội. Trong các loại ung thư phổ biến tại Việt Nam hiện nay thì ung thư vú là loại ung thư phổ biến nhất ở nữ giới. Theo GLOBOCAN 2012, trên thế giới có 1,7 triệu ca mắc mới ung thư vú, chiếm khoảng 12% tổng số ca mắc mới và 25% trong tổng số ung thư ở phụ nữ.
Tỷ lệ phụ nữ trẻ bị ung thư vú ngày càng gia tăng ở nước ta
Tại Việt Nam, theo nghiên cứu gánh nặng bệnh ung thư và chiến lược phòng chống ung thư quốc gia đến năm 2020, ung thư vú là loại ung thư có tỷ lệ mắc mới cao nhất ở nữ giới. Tỷ lệ mắc mới chẩn đoán theo tuổi năm 2010 ước tính là 28,1/100.000 phụ nữ.
PGS.TS Trần Văn Thuấn cho rằng, đối với các nước, độ tuổi mắc ung thư vú thường là 60-65. Tuy nhiên, ở Việt Nam, độ tuổi mắc ung thư vú chỉ từ 40-50, trẻ hơn nhiều so với các nước khác. Thậm chí, các bác sĩ đã gặp những trường hợp mắc ung thư vú khi mới 20-25 tuổi.
Nhiều tiến bộ trong chấn đoán và điều trị ung thư vú đã được triển khai thành công tại Việt Nam
Theo PGS, TS Trần Văn Thuấn, hiện nay, trong công tác phát hiện sớm bệnh ung thư, kỹ thuật sinh thiết bằng định vị kim dây được thực hiện tại BV K giúp chẩn đoán sớm các khối u chưa phát hiện được trên lâm sàng. Về mô bệnh học và sinh học phân tử, BV K đã áp dụng những kỹ thuật mới nhất không chỉ để chẩn đoán bệnh chính xác mà còn phân loại chi tiết các thể bệnh học giúp cho từng bệnh nhân có phương pháp điều trị thích hợp nhất.
Các kỹ thuật chụp cắt lớp đa dãy, chụp cộng hưởng từ với từ lực cao, chụp xạ hình, PET-CT đã giúp đánh giá giai đoạn bệnh, đánh giá kết quả điều trị tốt hơn thay vì chỉ có X-quang thường và siêu âm ổ bụng như trước. Việc sinh thiết các vị trí di căn ở sâu cũng có thể được thực hiện nhờ các phương pháp hiện đại hỗ trợ.
“Trong phẫu thuật, với các bệnh nhân ở giai đoạn sớm, khối u nhỏ đã được phẫu thuật bảo tồn chỉ lấy rộng u thay vì cắt toàn bộ vú như trước đây. Đối với bệnh nhân có khối u lớn, không thể giữ được tuyến vú thì phẫu thuật tái tạo vú sẽ giúp bệnh nhân có được tâm lý tự tin sau điều trị. Kỹ thuật phát hiện và sinh thiết hạch gác (hạch cửa) giúp tránh được vét hạch nách ở các trường hợp chưa di căn hạch, hạn chế được các biến chứng tay to, đau, tê bì mà bệnh nhân phải chịu đựng trong nhiều năm”- Giám đốc BV K cho hay
Sau các ca mổ, khi phải xạ trị thì các kỹ thuật điều biến liều (IMRT) làm giảm thiểu tác dụng có hại của xạ trị đối với các cơ quan lân cận như phổi, tim, xương sườn… Các máy xạ trị gia tốc với năng lượng cao cũng giúp giảm thời gian xạ trị, hạn chế các tác dụng phục của xạ trị.
Một thành tựu nữa trong công tác điều trị ung thư vú cũng được PGS. TS Trần Văn Thuấn chia sẻ tại hội thảo, ngày nay các bệnh nhân ung thư vú có cơ hội sống lâu dài bởi các thuốc điều trị bệnh vô cùng phong phú. Các thuốc hóa chất, nội tiết, chống di căn xương mới nhất và hoạt tính chống u cao, tác dụng phụ thấp đều đã có mặt và được áp dụng tại BV K.
Đặc biệt, những năm gần đây, các thuốc điều trị đích trong đó có kháng thể đơn dòng trastuzumab (Herceptin) với khả năng tìm tế bào ung thư để tiêu diệt, hạn chế ảnh hưởng đến tế bào lành đã được ứng dụng trong điều trị. Các thuốc chống nôn, thuốc kích thích bạch cầu thế hệ mới đã hỗ trợ tích cực cho các phương pháp điều trị chính, giúp bệnh nhân vượt qua được các tác dụng phụ của điều trị.
“Nhờ áp dụng nhữngg thành tựu mới trong chẩn đoán và điều trị, hiện nay nhiều bệnh nhân ung thư vú được phát hiện ở giai đoạn sớm với tỷ lệ sống trên 5 năm tới 85,6% so với tỷ lệ 67,7% ở những năm 1990 tại BV K”- PGS.TS Trần Văn Thuấn thông tin.
Vẫn còn nhiều bệnh nhân ung thư vú có thể bảo tồn bầu vú vẫn xin cắt bỏ…
Khám sàng lọc để phát hiện sớm ung thư vú cho phụ nữ
Trao đổi với phóng viên bên lề hội nghị, ThS. BS Nguyễn Minh Khánh- Khoa Ngoại vú, BV K cho hay, với các kỹ thuật tiên tiến trong chẩn đoán và điều trị ung thư vú được áp dụng hiện nay, nếu người bệnh phát hiện ung thư sớm trước giai đoạn 1, thậm chí kể có u với kích thước 3cm, chưa di căn hạch vẫn có thể truyền hóa chất để khối u không phát triển, nhỏ lại rồi phẫu thuật thì khả năng di căn sẽ rất ít, thậm chí có thể chữa khỏi. Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay, do vấn đề tâm lý sợ tái phát hay di căn nên nhiều chị em phụ nữ ở khi đến khám và điều trị ung thư tại BV K chưa đồng ý về phẫu thuật giữ bảo tồn bầu vú, kể cả bác sĩ tư vấn, có chỉ định giữ vú nhưng vẫn… xin cắt.
“Thậm chí kể cả phụ nữ có con hay chưa có con đều xin cắt vú. Trong khi nếu bảo tồn vẫn nuôi con bình thường, tuyến sữa hoạt động bình thường”- BS Khánh nói
Cũng theo BS Khánh, đối với các u vú nhỏ, chưa di căn, các bác sĩ đã phẫu thuật bảo tòan là cắt rộng tuyến u và 1/3 tuyến vú. Sau đó các bác sĩ có thể cắt tòan bộ và đặt tuí ngực luôn, hoặc đưa vạt mỡ bụng lên, da mỡ cơ bụng đưa lên. Việc này được làm miễn phí hòan tòan cho bệnh nhân có nhu cầu tạo hình thẩm mỹ, (bệnh nhân mua túi, còn chi phí tạo hình không mất tiền), thế nhưng có rất ít bệnh nhân muốn tạo hình. Hiện nay chỉ có một tỷ lệ rất nhỏ bệnh nhân ung thư vú có đời sống cao thì mới có nhu cầu tạo hình còn hầu hết là cắt.
BS Khánh cũng cho biết thêm, ở nước ngòai gen ung thư vú nhiều, tại Việt Nam nghiên cứu về gen di truyền từ ung thư vú thì không nhiều lắm. Có thể thống kê chưa công bố đầy đủ.