Bệnh mày đay mạn tính - Dùng thuốc gì?

31-07-2011 07:26 | Dược
google news

Mày đay mạn tính là một bệnh lí dị ứng ngoài da thường gặp, đặc trưng bởi sự xuất hiện trong một thời gian ngắn và tái diễn liên tục hàng ngày của các sẩn phù, đi liền với ban đỏ và ngứa nhiều, kéo dài trên 6 tuần. Kích thước và hình dạng của các sẩn phù rất đa dạng, có thể chỉ nhỏ bằng đầu tăm hoặc thành mảng to dạng bản đồ.

Mày đay mạn tính là một bệnh lí dị ứng ngoài da thường gặp, đặc trưng bởi sự xuất hiện trong một thời gian ngắn và tái diễn liên tục hàng ngày của các sẩn phù, đi liền với ban đỏ và ngứa nhiều, kéo dài trên 6 tuần. Kích thước và hình dạng của các sẩn phù rất đa dạng, có thể chỉ nhỏ bằng đầu tăm hoặc thành mảng to dạng bản đồ.

Ít nhất 50% bệnh nhân mày đay mạn tính có kèm theo phù mạch với biểu hiện sưng nề môi, mắt, khó thở hoặc nuốt nghẹn do phù nề ở họng, thanh quản. Bệnh thường gặp ở người trưởng thành, nữ gặp nhiều hơn nam và có yếu tố gia đình, hiện chưa có thống kê về tỷ lệ mắc bệnh mày đay mạn tính trong cộng đồng dân cư. Mặc dù không phải là một bệnh nguy hiểm nhưng mày đay mạn tính có thể gây ảnh hưởng lớn đến tâm lí và chất lượng cuộc sống của người bệnh. Cơ chế gây bệnh của mày đay mạn tính hiện nay được cho là do phản ứng viêm kéo dài, theo cơ chế dị ứng tại da và niêm mạc, với sự tham gia của nhiều loại tế bào và yếu tố gây viêm. Nguyên nhân gây bệnh có thể do dị ứng với thuốc, thức ăn hoặc các tác nhân từ môi trường như bọ nhà, phấn hoa…, tuy nhiên, hầu hết các trường hợp không xác định được nguyên nhân gây bệnh chính xác.

Nguyên tắc chung trong điều trị mày đay mạn tính là kiểm soát triệu chứng với các thuốc ít độc tính nhất có thể như các thuốc kháng histamin và kháng leukotrien. Một số thuốc ức chế miễn dịch với nhiều độc tính chỉ sử dụng trong trường hợp người bệnh không đáp ứng với các thuốc trên.

Thuốc kháng histamin

Do histamin là hoạt chất trung gian có vai trò hết sức quan trọng trong mày đay mạn tính nên các thuốc kháng lại thụ thể H1 của histamin cũng là sự lựa chọn hàng đầu trong điều trị bệnh. Những dẫn xuất kháng H1 được sử dụng nhiều nhất hiện nay là cetirizin, levocetirizin, loratadin, desloratadin và fexofenadin, tất cả đều thuộc thế hệ 2, ít hoặc không gây buồn ngủ. Nói chung,  ở liều thông thường, các dẫn xuất này có hiệu quả tương đương nhau trong điều trị mày đay mạn tính và có thể kiểm soát triệu chứng ở phần lớn (80-90%) bệnh nhân. Để đạt được tối đa hiệu quả điều trị, các thuốc này nên được dùng đều đặn hàng ngày trong giai đoạn đầu điều trị thay vì chỉ uống khi có triệu chứng. Các thuốc kháng histamin H1 thế hệ cũ như hydroxyzin, diphenydramin, doxepin có thể được dùng một lần buổi tối trước khi đi ngủ để kiểm soát triệu chứng ở những bệnh nhân có ngứa nhiều về đêm. Do tính an toàn cao của các thuốc kháng H1 thế hệ mới nên một số tác giả khuyến cáo việc tăng liều các thuốc này gấp 2-4 lần trong những trường hợp không đáp ứng với liều thông thường. Tuy nhiên, phương pháp tiếp cận này chỉ có hiệu quả với một số bệnh nhân và cần được nghiên cứu thêm. Một số nghiên cứu còn cho thấy, dùng phối hợp với các thuốc kháng histamin H2 như cimetidin, ranitidin có thể làm tăng hiệu quả điều trị mày đay mạn tính của các thuốc kháng H1 do có khoảng 15% các thụ thể histamin ở da thuộc loại H2.

 Dị ứng thuốc là một trong những nguyên nhân gây bệnh mày đay.

Các thuốc kháng leukotrien

Leukotrien là một hoạt chất trung gian có vai trò khá quan trọng trong các phản ứng viêm dị ứng, do đó, các thuốc có tác dụng kháng lại hoạt chất này đã được thử nghiệm trong điều trị nhiều loại bệnh dị ứng khác nhau, trong đó có mày đay mạn tính. Những kết quả nghiên cứu gần đây cho thấy, một số thuốc có tác dụng ức chế thụ thể của leukotrien như montelukast hoặc zafirlukast, khi dùng phối hợp với các thuốc kháng histamin có thể giúp kiểm soát triệu chứng ở một số bệnh nhân mày đay mạn tính không đáp ứng với thuốc kháng histamin đơn thuần. Với tính an toàn khá cao, nhóm thuốc này nên được điều trị thử khi bệnh nhân không đáp ứng với liều chuẩn của các thuốc kháng histamin.

Corticoid

Các dẫn xuất corticoid như dexamethason, prednisolon, methylprednisolon… là những thuốc được sử dụng khá rộng rãi trong điều trị các trường hợp mày đay mạn tính không đáp ứng với thuốc kháng histamin. Hiệu quả điều trị của các thuốc này khá rõ rệt trên lâm sàng, tuy nhiên, việc điều trị kéo dài có thể gây ra nhiều tác dụng phụ như loãng xương, viêm loét dạ dày, tăng huyết áp… và dễ gây lệ thuộc vào thuốc. Những trường hợp nặng có thể cân nhắc điều trị một đợt corticoid uống liều thấp ngắn ngày (trong 1-2 tuần).

Ciclosporin

Là một thuốc ức chế miễn dịch được sử dụng rộng rãi trong điều trị chống thải ghép và nhiều bệnh lí tự miễn dịch. Trong một số trường hợp, mày đay mạn tính ở mức độ nặng, không đáp ứng với các thuốc kháng histamin và kháng leukotrien, những trường hợp bị lệ thuộc vào corticoid, ciclosporin có thể được cân nhắc lựa chọn. Các bằng chứng y học cho thấy đáp ứng rất tốt của các trường hợp mày đay mạn tính dai dẳng đối với ciclosporin ở liều 2-4 mg/kg/ngày, tuy nhiên, việc chỉ định cần thận trọng do độc tính cao của thuốc đối với thận. Bên cạnh những nhóm thuốc kể trên, một số thuốc khác cũng đã được thử nghiệm trong xử trí các trường hợp mày đay mạn tính dai dẳng như methotrexate, cyclophosphamide, globulin miễn dịch liều cao, hydroxychloroquin, sulfasalazin, dapson, tacrolimus, levothyroxin, stanozolol… Mặc dù việc thử nghiệm các thuốc này đã thu được những kết quả bước đầu, nhưng hiệu quả và độ an toàn của chúng cần được kiểm chứng qua những nghiên cứu lớn trước khi có thể được sử dụng rộng rãi.

  BS. Nguyễn Hữu Trường (Trung tâm Dị ứng - Miễn dịch lâm sàng, BV Bạch Mai)


Ý kiến của bạn