Bệnh lao hạch có lây không?

11-11-2020 11:00 | Y học 360
google news

SKĐS - Bệnh lao hạch là một trong những bệnh lao ngoài phổi dễ mắc phải, xuất hiện nhiều nhất là ở trẻ em. Lao hạch là bệnh không lây nhiễm. Lao hạch khác với lao phổi là không lây lan cho những người xung quanh qua tiếp xúc bởi vi khuẩn này chỉ khu trú và phát triển trong hạch, không bùng phát ra ngoài.

Phân biệt hạch và lao hạch

Bình thường các hạch của cơ thể rất nhỏ, chỉ lớn bằng hạt thóc, hạt đỗ, hạt ngô nhỏ. Các hạch mềm nằm lẫn trong các mô xung quanh, ở tổ chức mỡ dưới hay hay lẫn trong thớ cơ nên khó nhận biết. Khi hạch đã có thể sờ nắn thấy nghĩa là chúng đã sưng to. Nếu hạch có sưng nóng, đỏ, sờ thấy đau, mật độ mềm thì dùng thử kháng sinh, nếu bớt sưng đau, kích thước nhỏ đi thì là viêm hạch do nhiễm khuẩn.

Nếu hạch cứng, phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng, sờ như hạt đạn chì, chân lan tỏa như rễ cây thì phải coi chừng đây có thể là hạch ung thư hoặc hạch di căn ung thư.

Nếu hạch lúc sưng lúc giảm, lúc không lúc đau thì có thể là hạch viêm do nhiễm khuẩn thông thường.

Nếu hạch phát triển chậm, sờ nắn không đau, mềm căng thì có thể là lao hạch.

Lao hạch là bệnh không lây cho người xung quanh khi tiếp xúc và dễ điều trị.

Lao hạch là bệnh không lây cho người xung quanh khi tiếp xúc và dễ điều trị.

Con đường xâm nhập của trực khuẩn lao

Trực khuẩn lao có 4 con đường xâm nhập cơ thể và gây lao hạch: Trực khuẩn lao xâm nhập phổi, sau đó vào máu rồi đến tổ chức hạch và gây lao hạch. Trực khuẩn lao có thể xâm nhập trực tiếp hệ bạch huyết qua tổn thương lao ở niêm mạc miệng hoặc từ nhiễm khuẩn, tổn thương thông thường do sang chấn. Trực khuẩn lao có thể đi qua niêm mạc miệng vào đường bạch huyết (lao hạch tiên phát), cũng có thể xâm nhập hệ bạch huyết qua niêm mạc miệng mà không gây bệnh lý gì.

Như vậy, đường xâm nhập của trực khuẩn lao thường do nhiễm khuẩn lao toàn thân, gây viêm hạch nhiều chỗ.

Diễn tiến và triệu chứng của bệnh lao hạch

Khi bị lao hạch, người bệnh sẽ thấy xuất hiện một hoặc một nhóm hạch trên cơ thể bị sưng to, xuất hiện nhiều ở cổ với đặc điểm: Hạch xuất hiện tự nhiên mà người bệnh không rõ hạch bắt đầu có hay to lên từ lúc nào. Hạch sưng to dần mà không gây đau, với mật độ chắc, bề mặt nhẵn. Vùng da hạch sưng to không nóng, không tấy đỏ. Thường có nhiều hạch cùng một chỗ bị sưng, cái to cái nhỏ không đều nhau tập hợp thành một chuỗi. Có khi chỉ gặp một hạch đơn độc sưng to vùng cổ vùng cổ, không đau, không nóng, không đỏ.

Hạch lao phát triển qua 3 giai đoạn sau:

Giai đoạn đầu: Hạch bắt đầu sưng to, với các hạch to nhỏ không đều nhau, chưa dính vào da và cũng chưa dính vào nên di động còn dễ.

Giai đoạn sau: Giai đoạn này chuyển sang thể viêm hạch và viêm quanh hạch. Lúc này các hạch có thể bị dính vào với nhau thành các mảng, có thể hoặc chưa dính vào da và các tổ chức xung quanh. Nếu có sẽ làm hạn chế di động.

Giai đoạn nhuyễn hóa: Các hạch mềm dần, da vùng hạch bắt đầu sưng tấy đỏ nhưng không nóng và không đau. Khi hạch đã hóa mủ thì dễ vỡ.

Riêng ở thể khối u (viêm hạch lao phì đại, rất ít gặp, có triệu chứng sau: xuất hiện khối u ở cổ, một hay vài hạch nổi to, sau đó dính thành một khối lớn không đau, di động, không có viêm quanh hạch, sờ chắc. Khối u hạch to dần, chiếm gần hết vùng bên cổ khiến các hạch khác (dưới hàm, mang tai...) cũng bị phì đại. U nằm ở một bên hoặc cả 2 bên làm cho cổ như bị bạnh ra.

Lao hạch không lây, dễ điều trị

So với các thể lao khác thì lao hạch điều trị dễ dàng và đơn giản hơn rất nhiều. Thời gian điều trị có thể kéo dài từ 4-7 tháng tùy theo thể trạng bệnh. Với trường hợp bệnh nhân lao hạch bị u lympho lao hạch, lao không thành mủ, di động, khu trú thì có thể sử dụng phương pháp cắt bỏ. Lao hạch ở trẻ em dễ dàng chữa khỏi nếu được điều trị toàn thân đúng cách.

Để phòng ngừa bệnh lao hạch, cách tốt nhất là nâng cao sức đề kháng cơ thể, tránh để viêm hạch mạn tính kéo dài, tạo điều kiện cho trực khuẩn lao xâm nhập gây bệnh. Khi có chẩn đoán là mắc lao hạch, bệnh nhân cần tuân thủ điều trị theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa lao, phối hợp nâng cao thể trạng với chế độ ăn uống tốt và nghỉ ngơi hợp lý.


BS. Đức Vĩnh
Ý kiến của bạn