Cơ chế bệnh sinh phức tạp. Có tình trạng viêm không đặc hiệu màng hoạt dịch khớp, quá trình này kéo dài không chấm dứt đi từ khớp này sang khớp khác, mặc dù tác nhân gây bệnh ban đầu đã chấm dứt từ lâu. Đây là bệnh thường gặp, chiếm 0,5 - 2% dân số.
Những dấu hiệu
Đa số trường hợp bệnh bắt đầu từ từ tăng dần, nhưng có khoảng 15% bắt đầu đột ngột với các dấu hiệu cấp tính. Trước khi các dấu hiệu khớp xuất hiện, bệnh nhân có thể có các biểu hiện như: sốt nhẹ, gầy sút, mệt mỏi, tê các đầu chi, ra nhiều mồ hôi, rối loạn vận mạch. Sau đây là các tiêu chuẩn chẩn đoán của Hội Thấp Khớp học Mỹ:
Có dấu hiệu cứng khớp buổi sáng kéo dài hơn 1 giờ.
Sưng đau kéo dài trên 6 tuần tối thiểu 3 vị trí trong số 14 khớp: ngón tay gần(2), bàn ngón(2), cổ tay(2), khuỷu(2), gối(2), cổ chân(2), bàn ngón chân(2).
Sưng đau 1 trong 3 vị trí: khớp ngón tay gần, khớp bàn ngón, khớp cổ tay.
Sưng khớp đối xứng.
Có hạt dưới da.
Phản ứng tìm yếu tố dạng thấp dương tính.
Hình ảnh X-quang điển hình: khuyết bờ xương, hủy sụn khớp, khoảng giữa 2 đầu xương hẹp lại, trục khớp bị lệch.
Chẩn đoán xác định khi có từ 4 tiêu chuẩn trở lên.
Bệnh có diễn biến kéo dài nhiều năm, phần lớn có tiến triển từ từ tăng dần, nhưng có 1/4 trường hợp có tiến triển từng đợt, có những giai đoạn lui bệnh rõ rệt. Rất hiếm thấy trường hợp lui dần rồi khỏi hẳn. Bệnh có thể tiến triển nặng lên khi bị nhiễm khuẩn, lạnh, chấn thương, phẫu thuật. Trong quá trình diễn biến của bệnh, các thầy thuốc chia ra 4 giai đoạn theo chức năng vận động và tổn thương trên phim X-quang.
- Giai đoạn 1: X-quang chưa có thay đổi, chức năng vận động gần như bình thường.
- Giai đoạn 2: X-quang có hình khuyết xương và khe khớp hẹp. Vận động bị hạn chế, tay còn nắm được, đi lại bằng gậy, nạng.
- Giai đoạn 3: X-quang có dính khớp một phần. Khả năng vận động còn ít, không đi lại được.
- Giai đoạn 4: X-quang có dính khớp và biến dạng trầm trọng. Mất hết chức năng vận động, tàn phế hoàn toàn. Thường gặp sau 10 - 20 năm.
Những phương pháp điều trị
Điều trị cần lưu ý đến những điểm sau:
Dinh dưỡng: cần ăn nhiều trái cây tươi, rau tươi và các loại hạt. Ăn thịt vừa phải như thịt bò, thịt gà. Ăn nhiều cá, đặc biệt cá biển vì có chứa nhiều axít béo omega-3 giúp làm giảm tình trạng viêm của khớp. Cần tránh ăn măng tre, khoai môn, mướp đắng, tôm, cua, ghẹ, không nên uống nước lạnh, nước đá, rượu.
Thuốc:
Cải thiện triệu chứng viêm, giảm đau, tăng vận động(tuy nhiên không thay đổi diễn tiến tự nhiên của bệnh):
Các thuốc kháng viêm không steroid: dùng liều thấp nhất có hiệu quả như celecoxib,meloxicam, etoricoxib. Khi dùng ở nhóm thuốc này ở bệnh nhân già yếu, tiền sử bị bệnh lý dạ dày, hoặc điều trị dài ngày cần theo dõi chức năng thận và bảo vệ dạ dày bằng thuốc misoprostol(cytotec).
Corticoid: thường sử dụng ngắn hạn trong lúc chờ đợi các thuốc điều trị cơ bản có hiệu lực. Chỉ định khi có đợt tiến triển. Thuốc thường dùng là prednisone, prednisolone, methylprednisolone.
Điều trị cơ bản: có thể thay đổi được diễn tiến tự nhiên của bệnh. Cần điều trị lâu dài và theo dõi triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng mỗi tháng trong 3 tháng đầu sau đó mỗi 3 tháng trong suốt thời gian điều trị.
Thể mới mắc và thể thông thường: sử dụng các thuốc sau: methotrexat, hydroxychloroquine, mycophenolate mofetil,cyclosporin…
Thể nặng, kháng trị với các thuốc trên: dùng thuốc sinh học: rituximab, etanercept, infliximab, adamumab,tocilizumab.
Tập vận động: đa số bệnh nhân có cơ teo, biến dạng khớp, các cơ quan nội tạng ở trong tình trạng kém hoạt động. Do đó, việc tập hoạt động có vai trò quan trọng trong điều trị. Sự vận động điều độ giúp cho các cơ bớt teo, vừa làm tăng trương lực cơ để làm giảm lực chịu trên các khớp, lại vừa giúp cho sự ăn uống dinh dưỡng được tăng cường nhờ các cơ quan hoạt động tốt. Sự tập luyện điều độ làm tăng nội tiết tố trong người, nhất là các nội tiết tố tăng trưởng, nội tiết tố làm tăng cường tạo ra collagen, nội tiết tố thành lập các protein. Nhờ tập luyện, lưu lượng máu đến vùng bị bệnh tăng, thải nhanh các yếu tố gây viêm, hiện tượng viêm đau giảm 30%.
Thời gian điều trị bệnh kéo dài khá lâu (vài tháng đến vài chục năm), các biến động trong cơ thể làm cho người bệnh bị mất tinh thần, hoạt động bị thu hẹp, thu nhập kém đi, gia đình khó khăn, làm tâm lý bị biến động và trở nên trầm cảm. Ngoài ra các thuốc giảm đau kháng viêm làm giảm một lưu lượng lớn prostaglandin, là chất có tác dụng khá quan trọng trong sự linh hoạt của hệ thần kinh, làm cho người bệnh mất linh hoạt.
Các điều trị phối hợp khác: trong đợt viêm cấp để khớp nghỉ ở tư thế cơ năng, tránh kê độn tại khớp. Ngay khi triệu chứng viêm thuyên giảm thì bắt đầu tập vận động để chống dính. Tập nhiều lần trong ngày, tăng dần theo đúng các chức năng của khớp. Ngoài ra áp dụng vật lý trị liệu, tắm suối khoáng. Khi khớp bị biến dạng, nhiều khớp bị viêm kéo dài do viêm hoạt mạc mạn tính, hoặc sụn khớp bị phá hư nhiều gây cản trở sinh hoạt hàng ngày nghiêm trọng thì cần phải phẫu thuật chỉnh hình như cắt xương sửa trục, cắt hoạc mạc qua nội soi, thay khớp nhân tạo khi có chỉ định.