Bệnh gan và hội chứng gan phổi

23-06-2013 08:00 | Phòng mạch online
google news

Hội chứng gan phổi thường gặp ở bệnh nhân có bệnh gan làm ảnh hưởng đến khả năng hô hấp của phổi. Bệnh gây khó thở, mạch máu phổi bị giãn rộng giảm khả năng cung cấp ôxy đến các mô trong cơ thể.

Hội chứng gan phổi thường gặp ở bệnh nhân có bệnh gan làm ảnh hưởng đến khả năng hô hấp của phổi. Bệnh gây khó thở, mạch máu phổi bị giãn rộng giảm khả năng cung cấp ôxy đến các mô trong cơ thể.

Mắc bệnh gan sẽ dẫn đến hội chứng gan phổi

Hội chứng gan phổi bắt nguồn từ bệnh của gan gây giãn mạch máu phổi, hậu quả là thiếu hụt ôxy trong máu động mạch. Thiếu ôxy máu động mạch là tình trạng phổ biến khi mắc phải bệnh gan. Khi bệnh gan đến giai đoạn cuối, gan tăng sản xuất, giảm thanh thải các chất, đưa vào hệ tuần hoàn các yếu tố gây giãn mạch như nitric oxide, glucagon, peptide kích hoạt calcitonine, peptide gây giãn mạch ở ruột, và nhất là giãn mạch phổi dẫn đến thiếu ôxy máu. Cho đến nay khoa học vẫn chưa xác định chính xác chất gây giãn mạch phổi, do đó việc điều trị bằng thuốc không có kết quả, mà bệnh nhân phải thở ôxy hoặc ghép gan.

Bệnh gan và hội chứng gan phổi 1
 Giãn mạch máu phổi trong hội chứng gan phổi.

Biểu hiện bệnh

Hội chứng bao gồm 3 triệu chứng chính: suy chức năng gan, giãn mạch máu phổi và rối loạn khí máu động mạch. Mức độ giãn mạch máu trong phổi từ 15 - 160 micron, làm quá tải tưới máu dẫn đến tình trạng thông khí tưới máu không cân bằng và là nguyên nhân chính gây thiếu ôxy máu. Triệu chứng điển hình của hội chứng gan phổi là khó thở, cả khi bệnh nhân nghỉ ngơi cũng khó thở ở bệnh nhân đã bị bệnh gan nhiều năm. Triệu chứng sẽ nặng hơn trong tư thế đứng thẳng vì từ tư thế nằm sang tư thế đứng, áp suất ôxy trong máu động mạch giảm 5% hoặc xuống thấp hơn 4mmHg. Nguyên nhân gây khó thở do các biến chứng của bệnh gan như thiếu máu, cổ trướng, tụ dịch, hay thoái hóa cơ vân. Các triệu chứng khác như: có nhiều mạch máu li ti kết tỏa thành hình mạng nhện trên da; móng tay hình dùi; da bệnh nhân thường bị chứng xanh tím tái do thiếu ôxy trầm trọng.

Xét nghiệm: đo khí máu động mạch thấy nồng độ cũng như áp xuất ôxy trong máu động mạch giảm so với bình thường. Siêu âm tim thấy hình ảnh các bong bóng nhỏ với đường kính trên 10µm để phát hiện sự giãn nở mạch máu phổi. Do trong thủ thuật này thầy thuốc tiêm dung dịch nước muối đã lắc mạnh vào tĩnh mạch ngoại biên sẽ tạo thành các tiểu bong bóng trong lòng mạch. Theo hệ tuần hoàn máu, những tiểu bong bóng này trở về tâm nhĩ phải, xuống tâm thất phải rồi được đưa đến phổi qua động mạch phổi. Bình thường, các tiểu bong bóng này không qua được hệ mao mạch ở phổi vì đường kính chỉ dưới 8-15µm. Nếu hệ mao mạch giãn nở bất thường thì ta có thể thấy những hạt bong bóng ti li trên hình ảnh siêu âm của nhĩ trái. 

Kỹ thuật Scan để tìm đại phức hợp albumin-technetium-99m cũng có cơ chế tương tự với siêu âm tim: tiêm nguyên tố phóng xạ nhân tạo technetium-99m vào máu tĩnh mạch, chất này sẽ gắn kết với albumin trong huyết tương, phức hợp này đi đến phổi, xuất hiện ở thận, não theo dòng máu. Bình thường, albumin có đường kính từ 20-60µm, không đi qua được các mao mạch phổi có đường kính dưới 8µm, chỉ khi giãn mạch máu thì nó mới đi qua được nhanh chóng. Chụp Xquang ngực sẽ thấy các vùng tổ ong, nguyên nhân do các mạch máu giãn làm tăng độ mờ đục của ảnh ở vùng đó. Độ mờ đục tăng từ 5-13,8% ở bệnh nhân mắc bệnh gan mạn tính và tăng 46-100% ở bệnh nhân bị hội chứng gan - phổi. Chụp cắt lớp  giúp chẩn đoán giãn mạch máu, mức độ giãn tăng dần ở những nhánh cuối đến màng phổi. Chụp mạch phổi để kiểm tra tình trạng tưới máu.

Bệnh gan và hội chứng gan phổi 2
 Các vùng “tổ ong” trên phim Xquang phổi.

Ðiều trị và phòng bệnh

Nhiều nghiên cứu cho thấy, việc điều trị bằng thuốc đều không cho kết quả.

Liệu pháp thở ôxy sẽ giúp bệnh nhân giảm được tình trạng thiếu hụt ôxy nghiêm trọng mặc dù hiệu quả và lợi ích của nó không có giá trị lâu dài. Biện pháp cơ học tạo đường nối thông tĩnh mạch cửa và tĩnh mạch chủ bằng phương pháp TIPS giúp làm giảm áp lực tĩnh mạch cửa, song phương pháp này lại gây tăng tuần hoàn máu, giãn mạch máu phổi và làm hội chứng gan phổi trầm trọng hơn. 

Phẫu thuật ghép gan là phương pháp điều trị thành công duy nhất, nhưng tỉ lệ tử vong sau mổ cũng như thời gian từ lúc cấy ghép gan đến khi giảm tình trạng thiếu ôxy trong máu động mạch vẫn tăng cao ở bệnh nhân thiếu ôxy máu nặng.

Phòng bệnh: cần đo khí máu động mạch ở bệnh nhân bị bệnh gan mạn tính, những người có triệu chứng khó thở hoặc sắp tiến hành ghép gan.

Cấy gan của bệnh nhân đã ghép gan kết hợp với việc theo dõi sát các triệu chứng lâm sàng để có thể kiểm soát tốt hội chứng và điều trị kịp thời. Đối với bệnh nhân đã mắc hội chứng gan phổi nên được ưu tiên ghép gan để có hiệu quả điều trị lâu dài.  

Nhiều nghiên cứu cho biết: tỷ lệ mắc phải hội chứng gan phổi ở những bệnh nhân bệnh gan mạn tính là 4-47%. Tỉ lệ bệnh nhân mắc hội chứng này có thể sống thêm 5 năm sau ghép gan là 76%, giống như ở những bệnh nhân ghép gan nhưng không mắc hội chứng gan phổi. Ở những bệnh nhân có áp suất oxy trong máu là 50mmHg hoặc thấp hơn thì nguy cơ tử vong tăng cao. Vì vậy, bệnh nhân mắc hội chứng gan phổi mà áp suất oxy trong máu dưới ngưỡng 60mmHg phải được ưu tiên ghép gan và cấy ghép càng sớm càng tốt.

    
ThS. Bùi Quỳnh Nga
 

Ý kiến của bạn