Kỳ 2: Các biện pháp phòng, chống dịch
Biện pháp dự phòng
- Ở những địa phương có dịch hạch lưu hành và những vùng có nguy cơ khi chưa có dịch, phải thường xuyên theo dõi kết quả giám sát dịch tễ học dịch hạch để chủ động phòng chống bệnh dịch.
- Tập huấn phòng chống dịch hạch cho tuyến cơ sở, màng lưới cộng tác viên.
- Tuyên truyền giáo dục cộng đồng thực hiện tốt công tác vệ sinh môi trường, bố trí và sắp xếp vị trí cũng như cấu trúc nhà ở và kho tàng hợp lý, quản lý lương thực, thực phẩm, nuôi mèo, đặt bẫy, phá vỡ hang tổ chuột, khống chế, phá hủy nơi sinh sản của chuột, bọ chét, khi thấy chuột chết bất thường phải khai báo ngay với y tế cơ sở. Các hiện tượng sốt, nổi hạch phải đến cơ sở y tế để khám và điều trị.
- Chuẩn bị sẵn sàng cơ số thuốc điều trị, hoá chất, phương tiện, nhân lực phục vụ chống dịch.
Diệt chuột
- Diệt đại trà bằng hóa chất chỉ khi chỉ số bọ chét tự do (CSBC) nhỏ hơn 1, diệt định kỳ hàng năm từ 1 đến 2 lần vào thời gian sinh sản của chuột, thời gian cụ thể tùy từng địa phương. Kết hợp diệt chuột và bọ chét bằng việc sử dụng hộp mồi theo nguyên tắc hộp mồi "Kartman".
- Khi có dịch hạch (ở chuột hoặc ở người): Không diệt chuột đại trà, chỉ diệt khi chỉ số bọ chét thấp hơn 1 hoặc bằng 0 và tiến hành diệt bọ chét bằng hóa chất đặc hiệu ngay sau khi diệt chuột.
- Hóa chất diệt chuột: Dùng hóa chất đa liều như Warfarin 0,05% hoặc Brodifacoum 0,005 - 0,01%, tốt nhất ở dạng thương phẩm như Klerat, Rat Killer hoặc theo hướng dẫn hàng năm của Bộ Y tế. Chỉ sử dụng hóa chất diệt chuột đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cấp giấy chứng nhận đăng ký lưu hành.
Diệt bọ chét
- Phun hóa chất phù hợp dạng tồn lưu như Permethrin 0,2 g/m2, Vectron 0,1 - 0,2 g/m2, Diazinon 2 g/m2 hoặc các hóa chất diệt bọ chét khác đã được Bộ Y tế cho phép sử dụng trong y tế và gia dụng (cấp giấy chứng nhận đăng ký lưu hành). Diệt bọ chét ngay từ đầu mùa dịch ở những nơi có dịch năm trước và vùng có nguy cơ lây lan.
- Đặt hộp mồi Kartman thường trực có hóa chất diệt bọ chét dạng bột trong hộp có thể kết hợp diệt chuột bằng các hóa chất diệt chuột như đã nêu ở trên, đặt trong hộp.
Cần có thêm mồi hấp dẫn chuột. Thường xuyên kiểm tra hộp mồi để bổ sung hóa chất diệt bọ chét, diệt chuột và mồi hấp dẫn. Thời gian duy trì hộp mồi thường trực tùy thuộc vào chỉ số bọ chét tự do (CSBC) và mật độ chuột.
Biện pháp chống dịch và nguyên tắc điều trị
- Thành lập Ban chỉ đạo phòng chống dịch, Thủ trưởng cơ quan y tế trình với Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp để thành lập Ban chỉ đạo phòng, chống dịch hạch. Ban chỉ đạo phải thường xuyên kiểm tra, đôn đốc các hoạt động phòng, chống dịch, kiểm tra và bổ sung kinh phí, cơ số thuốc, hóa chất, phương tiện, nhân sự sẵn sàng phục vụ chống dịch ở các tuyến.
- Thực hiện chế độ thông tin, báo cáo dịch: Phải báo cáo dịch khẩn cấp với cơ quan y tế cấp trên và Bộ Y tế, đồng thời thực hiện nghiêm chỉnh chế độ thông tin, báo cáo theo quy định của Bộ Y tế.
- Tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia chống dịch hạch: Phát hiện chuột chết, vệ sinh môi trường, thấy có dấu hiệu nghi ngờ bị dịch hạch phải đến cơ sở y tế ngay. Tập huấn cho cán bộ về chẩn đoán và điều trị bệnh dịch hạch.
- Nguyên tắc điều trị: Tăng cường cán bộ y tế đủ cho việc khám và điều trị dịch hạch ở nơi trọng điểm. Bố trí cán bộ trực 24/24 giờ; Thành lập khu cách ly, hạn chế giao lưu; Tổ chức khu điều trị: tuyến cơ sở (trạm y tế xã hoặc một nhà cách ly), tuyến bệnh viện (Khoa truyền nhiễm của bệnh viện hoặc một phòng điều trị cách biệt các khoa khác).
- Kháng sinh điều trị đặc hiệu:
Streptomycine,Tetracycline, Chloramphenicol,Trimethoprim, Sulfamethoxazol.
- Xử lý ổ dịch và vùng phụ cận:
Diệt bọ chét:
Các hóa chất sử dụng dạng dung dịch như Diazinon với liều lượng 2g/m2, Permethrine 50 EC với liều lượng 0,2g/m2, Vetron 10 EC liều lượng từ 0,1 - 0,2g/m2.
Cách phun: Phun hóa chất tồn lưu xung quanh nơi có chuột chết tự nhiên, trên đường chuột chạy, hang, tổ chuột kể cả trong mái tranh, vách tranh..., phun bao vây ổ dịch bán kính 200 mét. Khi dịch lớn xẩy ra, phải phun diệt nơi có dịch và vùng có nguy cơ lây lan.
Rắc Diazinon bột 2% hay Vectron bột 2% (Vectron 2D) thành từng đám trên đường đi của chuột, mỗi đám thuốc với kích thước là 15x30x0,5cm, cách nhau 5-10 mét và rắc thuốc vào từng hang, tổ chuột.
Máy phun: Diệt phun nhỏ dùng bình bơm tay Hudson, Gloria... Nếu diện rộng phải dùng máy phun có động cơ như Fontan phun ULV dùng Ziclơ 0.4 hoặc 0.5, Mammy với Ziclơ 14-15. Phun đúng kỹ thuật, đúng liều lượng và nồng độ thuốc.
Phun hóa chất diệt bọ chét sau 7-10 ngày, nếu thấy chỉ số bọ chét tự do ký sinh còn lớn hơn 1 và mật độ bọ chét tự do lớn hơn 1, phải tiếp tục phun lần 2.
Phun hóa chất diệt bọ chét khi có dịch ở chuột và ở người, sau đó phải tiếp tục phun lần 2 sau 7-10 ngày nếu thấy chỉ số bọ chét ký sinh còn lớn hơn 1 và mật độ bọ chét tự do lớn hơn 1. Nếu chỉ số bọ chét ký sinh lớn hơn 1 và chỉ số bọ chét tự do nhỏ hơn 1 thì chỉ sử dụng hóa chất dạng bột.
Diệt chuột:
Không tiến hành diệt chuột khi đang xảy ra dịch ở chuột và ở người. Chỉ diệt chuột sau khi chỉ số bọ chét tự do nhỏ hơn 1 hoặc bằng 0.
Hóa chất diệt chuột Brodifacoum tên thương mại là Klerat, dùng trong mồi với tỷ lệ 0,005 - 0,01%, Wafarin dùng trong mồi với tỷ lệ 0,05% tên thương mại là Rat Killer. Sau khi diệt chuột đại trà, phải phun ngay hóa chất diệt bọ chét.
Diệt chuột và bọ chét trên tàu biển, máy bay, sân bay, bến cảng: Bằng biện pháp xông hơi hóa chất do các đội chuyên diệt chuột và côn trùng thực hiện theo quy định của Điều lệ kiểm dịch y tế quốc tế (biên giới).
- Xác định ổ dịch chấm dứt hoạt động:
Sau khi đã thực hiện đầy đủ các biện pháp phòng chống dịch: thành lập khu cách ly, điều trị cấp cứu bệnh nhân, diệt bọ chét, diệt chuột, xử lý vệ sinh môi trường, điều trị dự phòng..., dựa theo tiêu chuẩn dưới đây để xác định và thông báo ổ dịch chấm dứt hoạt động: Không có bệnh nhân mắc mới sau 20 ngày kể từ ngày bệnh nhân cuối cùng ra viện; Không còn hiện tượng chuột chết tự nhiên; Kết quả giám sát vi sinh trên chuột và bọ chét âm tính.
Kiểm dịch y tế biên giới:
Phải báo cáo dịch khẩn cấp với cơ quan y tế cấp trên và Bộ Y tế, đồng thời thực hiện nghiêm chỉnh chế độ thông tin, báo cáo theo quy định của Bộ Y tế.
TS. Trần Thanh Dương (Phó Cục trưởng Cục YTDP & môi trường - Bộ Y tế)
Đặc điểm dịch tễ học
- Dịch hạch là bệnh lưu hành địa phương ở nhiều quốc gia trên thế giới. Trong 15 năm qua (1989-2003), 38.310 trường hợp mắc với 2.845 bệnh nhân tử vong ghi nhận từ 25 quốc gia trên thế giới với số mắc cao nhất vào năm 1991 và thấp nhất vào năm 1989. Trong đó, một số quốc gia báo cáo bệnh nhân dịch hạch cho Tổ chức Y tế Thế giới hàng năm là Công Gô, Madagascar, Tanzania ở châu Phi, Pêru và Hoa Kỳ ở châu Mỹ, Mông Cổ và Việt Nam ở châu Á. Tại Việt Nam, bệnh lan truyền từ loài gặm nhấm (chủ yếu là chuột) sang người, chủ yếu qua bọ chét chuột (Xenopsylla cheopis). Đây là vec-tơ chính truyền bệnh dịch hạch.