Cúm là một bệnh do virut typ A và typ B lây truyền ở đường hô hấp trên và dưới, thường phát thành dịch lớn, tái xuất hiện hàng năm và kéo dài 6-8 tuần, thế giới hàng năm có hơn 10% dân số mắc cúm. Tỷ lệ mắc bệnh và tử vong cao ở người già, người có nguy cơ như: đái tháo đường, hen, suy hô hấp, suy tim, trẻ đang bú và phụ nữ mang thai.
Khi bị nhiễm virut cúm, cơ thể có biểu hiện sốt cao, ngày thứ 3 giảm sau đó lại sốt cao ngày thứ 4 rồi giảm dần, nhức đầu, đau cơ, đau mình mẩy, sổ mũi, ho đau họng, đa số biến chứng ở đường hô hấp, cũng có khi tác động đến cơ, não và tim.
Virut cúm là virut có vỏ bọc ARN mạch đơn phân cực âm, do cấu trúc của ARN ở mỗi typ lại chia thành nhiều phân typ như: cúm A/H1N2, cúm A/H3N3, cúm A/H5N1. Phân typ A/H5N1 chính là virut gây ra bệnh cúm trên gia cầm có thể lây sang người, từ đó virut biến thể có thể lây từ người sang người - phát thành đại dịch thảm họa vô cùng khốc liệt, virut A/H5N1 vào cơ thể nhanh chóng phá hủy các phủ tạng tim, phổi, gan, thận gây tử vong rất nhanh.
Cơ chế tác dụng của tamiflu đối với virut cúm: tamiflu (oselatmivir) là một thuốc mới chống cúm đặc hiệu, tác dụng ức chế mạnh và chọn lọc Neuraminidase là một enzym chung của virut A và B. Cùng nhóm với tamiflu còn có relenza (zanamivir). Tamiflu dùng đường uống, thuốc khuếch tán toàn thân vào mọi ổ bị nhiễm virut dùng điều trị cúm cho người lớn và trẻ em trên 1 tuổi và cả để dự phòng sau phơi nhiễm. Relenza dùng đường hít, khuếch tán tại chỗ chủ yếu ở miệng họng, chỉ dùng điều trị cho người lớn.
Trong chỉ định điều trị tamiflu được chỉ định dùng cho người lớn và trẻ em trên 1 tuổi có những triệu chứng điển hình của cúm trong thời kỳ có dịch, phải uống sớm tốt nhất là 2 ngày sau khi bắt đầu có triệu chứng, liều ngày 2 viên chia 2 lần, đợt 5 ngày.
Trong dự phòng tamiflu được chỉ định để dự phòng sau phơi nhiễm dùng cho người lớn và thanh thiếu niên từ 13 tuổi trở lên cũng phải được dùng càng sớm càng tốt chậm nhất là trong vòng 2 ngày sau khi tiếp xúc với người bị cúm hoặc gia cầm cúm.
DS. Bùi Ngọc Thanh