Chốc là bệnh da thường gặp, nguyên nhân do nhiễm vi khuẩn, thường là tụ cầu, liên cầu. Bệnh gặp ở cả nam và nữ, thường gặp ở trẻ em nhưng cũng có khi gặp ở cả người lớn. Bệnh ít gây ảnh hưởng đến sức khỏe, tuy nhiên, cũng có một số thể bệnh nguy hiểm do tụ cầu gây bệnh có thể đe dọa tính mạng hoặc chốc biến chứng gây viêm cầu thận cấp, viêm cầu thận mạn, suy thận.
Tổn thương do chốc. |
Đường toàn thân thường dùng kháng sinh tác động vào nhóm vi khuẩn Gr ( ) như oxacillin, cloxacillin hoặc kháng sinh nhóm cephalosporin thế hệ 1-2 như cephalexin. Sử dụng các thuốc kháng sinh trên cần lưu ý một số điểm sau:
Oxacicllin là kháng sinh thuộc nhóm isoxazolyn penicillin có tác dụng ức chế sự phát triển của tụ cầu khuẩn, kể cả tụ cầu có tiết men penicillinase. Hiệu lực của thuốc để điều trị tụ cầu tương đối tốt. Chú ý thuốc hấp thu tốt hơn khi đói, nên cho người bệnh uống trước khi ăn 1 giờ. Một số tác dụng phụ có thể gặp: dị ứng, sốt, nổi ban đỏ, ngứa. Đối với tiêu hóa có thể gây buồn nôn, nôn, tiêu chảy. Trong quá trình dùng thuốc cần chú ý các tương tác thuốc sau: với thuốc tránh thai có thể làm giảm tác dụng thuốc tránh thai. Thuốc nhóm tetracycllin làm giảm hiệu lực của oxacillin, vì vậy không dùng cùng với các thuốc nhóm này.
Cloxacillin cũng là kháng sinh thuộc nhóm penicillin kháng penicillinase, là kháng sinh diệt khuẩn, đặc biệt tụ cầu, kể cả tụ cầu tiết penicillinase. Thuốc chống chỉ định đối với trẻ sơ sinh, người suy thận nặng. Thận trọng với người suy gan, phụ nữ có thai và cho con bú, bệnh nhân dị ứng với cephalosporin. Không dùng thuốc chung với amiloglycosid, probenecid. Lưu ý các tác dụng có hại như: mày đay, dị ứng, sốt, đau khớp, phù mạch, tổn thương thận, tiêu chảy, viêm tĩnh mạch huyết khối tại chỗ. Dùng thuốc trước khi ăn 1 giờ hoặc sau ăn 2 giờ.
Thuốc sát khuẩn tại chỗ: dùng dung dịch thuốc màu: milian, castellani có tác dụng diệt khuẩn, làm khô tổn thương. Đối với người lớn thường dùng castellani, trẻ em dùng milian vì castellani có thể gây kích ứng và cảm giác rát. Dung dịch màu sát khuẩn thường dùng đối với tổn thương chốc ở giai đoạn đầu lúc mới có mụn nước, bọng nước hoặc mới trợt vỡ. Bôi thuốc ngày 1-2 lần. Thuốc có tác dụng diệt khuẩn tốt, làm khô tổn thương nhanh nhưng nhược điểm là để lại màu xanh hoặc đỏ trên da.
Thuốc mỡ có kháng sinh hoặc chất diệt khuẩn như: mỡ gentamycin, neomycin, mupirocin, acid fusidic. Khi dùng thuốc này cần chú ý, bôi thuốc 1-2 lần trong ngày với lượng vừa đủ phủ kín tổn thương. Nên dùng mỡ có mupirocin với bệnh chốc do tụ cầu kháng methicillin. Không nên dùng thuốc mỡ cho các tổn thương trợt ướt, chảy dịch nhiều mà nên dùng thuốc dạng dung dịch bôi đến khi nào tổn thương khô thì dùng thuốc mỡ.
Thuốc mỡ hoặc cream có chứa cả kháng sinh và corticoid nhẹ và vừa như: fucidin H, fucicort, neocortef, cũng có thể dùng trong giai đoạn viêm nhiều. Tuy nhiên, cần thận trọng tác dụng phụ của corticoid gây teo da, giãn mạch… vì vậy không dùng diện rộng, vị trí da mỏng, nhiều nếp gấp và không dùng kéo dài.
Ngoài thuốc bôi tại chỗ còn có thể sử dụng thuốc tím pha loãng 1/10.000 để ngâm vùng tổn thương và tắm. Thuốc tím vừa có tác dụng diệt khuẩn lại có tác dụng làm khô các tổn thương trợt da, chảy dịch. Ngâm rửa tại chỗ ngày 1-2 lần. Các loại lotion hoặc gel làm sạch da và giữ ẩm cho da như cetaphil, lactacid, eucerin… tắm cũng giúp da sạch sẽ, tránh khô da.
Cần chú ý, bệnh nhân không dùng tay để làm dập vỡ mụn nước, mụn mủ, không cạy vảy da. Để phòng bệnh cần vệ sinh sạch sẽ, giữ cho da khô, thoáng, rửa tay hằng ngày sạch sẽ bằng xà phòng, cắt ngắn móng tay, tránh cào gãi trầy xước. Bôi thuốc kháng sinh, diệt khuẩn vào các nốt trầy xước, côn trùng cắn đốt.