1. Triệu chứng của bệnh Basedow
Triệu chứng của Basedow là cường giáp, do tăng sản xuất quá mức các hormone tuyến giáp. Khi bị cường giáp, mặc dù bệnh nhân ăn khỏe nhưng gầy sút cân; tính tình thay đổi, hay cáu gắt hoặc trầm cảm; trạng thái hồi hộp, nhịp tim nhanh; huyết áp tăng; run đầu chi; da nóng ẩm, tăng nhẹ nhiệt độ cơ thể; rối loạn tiêu hóa; suy giảm ham muốn tình dục, rối loạn kinh nguyệt…
Bệnh cũng gây viêm và sưng nề các mô quanh mắt, gây lồi mắt hay còn gọi là bệnh mắt Basedow.
Ngoài ra, một số triệu chứng ít gặp là xuất hiện các nốt mẩn đỏ ở da mặt trước vùng cẳng chân.
2. Điều trị bệnh Basedow như thế nào?
Về điều trị, tuy không có phương pháp điều trị dứt điểm được nguyên nhân gây bệnh, nhưng mục tiêu là bình giáp, từ đó giúp bệnh ổn định bệnh.
Hiện nay vẫn có 3 biện pháp là:
- Điều trị nội khoa (dùng thuốc kháng giáp tổng hợp).
- Xạ trị iod -131
- Phẫu thuật.
Mỗi phương pháp đều có ưu - nhược điểm riêng. Tùy vào từng tình trạng bệnh của bệnh nhân mà bác sĩ sẽ tư vấn phương pháp điều trị phù hợp nhất.
Với cường giáp do Basedow có thể điều trị thành công bằng thuốc kháng giáp, nhưng bệnh dễ tái phát và nhiều bệnh nhân có nhược giáp sau điều trị. Điều trị bằng iod-131 hoặc phẫu thuật, có thể chỉ cần điều trị 1 lần, ít tốn kém, nhưng bệnh nhân có thể gặp tình trạng nhược giáp sớm hơn so với điều trị bằng thuốc kháng giáp. Khi có triệu chứng nhược giáp, bệnh nhân cần uống thuốc hormone hàng ngày theo hướng dẫn của bác sĩ chuyên khoa nội tiết.
2.1 Điều trị Basedow bằng thuốc
Đây là biện pháp điều trị được ưu tiên, bởi biện pháp này hữu hiệu, tỷ lệ lui bệnh cao, ít gây suy giáp trường diễn. Đồng thời cũng ít ảnh hưởng đến thể chất, trí tuệ của bệnh nhân so với điều trị xạ hoặc phẫu thuật.
Trong các thuốc điều trị Basedow, thì các thuốc kháng giáp tổng hợp vẫn là loại thuốc căn bản hàng đầu. Các thuốc khác chỉ có vai trò hỗ trợ cho điều trị đạt kết quả tốt hơn. Mỗi loại thuốc tác dụng theo một cơ chế khác nhau.
- Thuốc kháng giáp tổng hợp bao gồm: Methylthiouracil (MTU), propylthiouracil (PTU), neomercazole…
Thuốc có tác dụng làm giảm hormone giáp theo hai cơ chế: Nội giáp và ngoại giáp.
Hơn nữa, thuốc còn làm thay đổi miễn dịch trung gian tế bào ở bệnh nhân Basedow, làm gia tăng số lượng tế bào lympho T ức chế; làm giảm hoạt động của tế bào lympho T hỗ trợ và làm giảm thâm nhập tế bào lympho tại nhu mô tuyến giáp.
Để đạt được hiệu quả miễn dịch, thường phải sử dụng thuốc bắt đầu bằng liều cao. Khi nồng độ hormone giáp trở về giá trị bình thường, thì giảm dần liều thuốc cho đến liều duy trì.
Hầu hết các trường hợp sử dụng thuốc kháng giáp tổng hợp trở về bình giáp sau 1-2 tháng dùng thuốc. Tỷ lệ lui bệnh hoàn toàn đạt 60-70% sau 12-18 tháng điều trị.
Tuy nhiên, do rối loạn tự miễn của tuyến giáp rất phức tạp và kéo dài, nên nếu chỉ sử dụng thuốc kháng giáp tổng hợp đơn thuần, thì tỉ lệ tái phát cao (khoảng 70-75%), sau ngừng thuốc 1 năm. Tỉ lệ tái phát càng cao nếu thời gian điều trị càng ngắn. Do đó cần điều trị tích cực và bệnh nhân phải tái khám đúng hẹn.
- Các thuốc điều trị hỗ trợ
- Thuốc chẹn beta giao cảm: Do các hormone của tuyến giáp làm ảnh hưởng đến tim, nên thuốc chẹn beta giao cảm được sử dụng cùng với thuốc kháng giáp tổng hợp trong điều trị bệnh Basedow ở giai đoạn tấn công. Điều này sẽ có tác dụng tốt trên hệ tim mạch, khống chế được các triệu chứng cường giao cảm như: Run tay, đổ mồ hôi, lo lắng… ở bệnh nhân Basedow.
- Thuốc corticoid: Ở một số bệnh nhân Basedow, có thể được sử dụng corticoid để ức chế miễn dịch, giảm sản xuất các kháng thể, giảm hiệu quả sinh học của các hormone tuyến giáp.
2.2 Điều trị bệnh Basedow bằng iod -131
Phương pháp điều trị này tương đối đơn giản, có hiệu quả và tiết kiệm. Có thể coi điều trị iod - 131 như một phẫu thuật tuyến giáp chọn lọc, tác dụng vào các tế bào háo iod của tuyến giáp. Mục đích điều trị Basedow bằng iod - 131 là làm cho bướu giáp nhỏ lại, đưa chức năng tuyến giáp từ cường giáp trở về bình giáp.
Biện pháp iod - 131 được chỉ định với các trường hợp:
- Sau khi biện pháp điều trị nội khoa không khỏi, bệnh tái phát.
- Các trường hợp bệnh nhân không thể tiếp tục điều trị bằng nội khoa do dị ứng thuốc, viêm gan, giảm bạch cầu.
- Bệnh nhân không đồng ý phẫu thuật hoặc bệnh nhân không có chỉ định điều trị phẫu thuật hoặc tái phát sau phẫu thuật.
- Bệnh nhân trên 30 tuổi, bệnh tái phát nhiều lần mà không phẫu thuật được.
- Người lớn tuổi, không có điều kiện điều trị nội khoa lâu dài.
- Các thể bệnh kháng lại thuốc kháng giáp tổng hợp sau một thời gian điều trị lâu dài.
- Các thể đe dọa có biến chứng tim mạch…
Phương pháp iod -131 đạt hiệu quả tối đa sau 8 đến 10 tuần điều trị. Nếu bướu tuyến giáp nhỏ lại, chức năng tuyến giáp trở về bình thường, thì không cần xử trí gì thêm. Bệnh nhân cần tái khám theo dõi định kỳ 6 tháng - 1 năm/lần theo chỉ định. Nếu sau khi điều trị, bệnh nhân bị nhược giáp thì cần bổ sung hormone tuyến giáp thay thế.
Ở một số bệnh nhân vẫn còn tình trạng cường giáp sau liệu trình điều trị, thì tùy tình trạng cường giáp, mức độ bướu còn to, sẽ có chỉ định điều trị bằng iod -131 cho lần tiếp theo cách 3 - 6 tháng.
Phương pháp iod -131 có thể đưa chức năng tuyến giáp về bình giáp chỉ sau 1 liều điều trị, tránh được những biến chứng của phương pháp phẫu thuật. Nhưng liệu pháp này cũng không điều trị khỏi được bệnh Basedow. Tỷ lệ bệnh nhân suy giáp sau điều trị khá cao 13.3%. Sau mỗi năm điều trị, tỉ lệ này tăng 2.1%.
2.3 Điều trị bệnh Basedow bằng phẫu thuật
Phương pháp này được lựa chọn khi bệnh nhân đã được điều trị bằng phương pháp nội khoa từ 4 - 6 tháng mà không duy trì được bình giáp khi ngừng thuốc. Hoặc tình trạng cường giáp tuy ổn định nhưng bướu giáp không nhỏ lại. Hoặc bướu giáp to gây mất thẩm mỹ, có các biểu hiện chèn ép gây khó thở; người bệnh không có điều kiện điều trị nội khoa…
Nguyên tắc của phẫu thuật Basedow là tiến hành phẫu thuật cắt bỏ gần hết tuyến giáp, chỉ giữ lại một lượng vừa đủ để đạt được trạng thái bình giáp, tránh cường giáp tái phát hoặc suy giáp sau mổ.
Về thực chất, điều trị phẫu thuật bệnh Basedow cũng là điều trị triệu chứng, không điều trị dứt điểm được bệnh.
Phương pháp điều trị bệnh Basedow bằng phẫu thuật có hiệu quả, ít di chứng, có thể thành công đến 90% các ca bệnh. Tuy nhiên vẫn còn có tỉ lệ biến chứng, trong đó vai trò của kỹ thuật mổ.
Các biến chứng sau mổ có thể gặp là: Suy chức năng tuyến giáp; bệnh tái phát trở lại; bệnh não sau nhiễm độc hormone giáp (hay gặp ở nam giới); cơn nhiễm độc hormone giáp kịch phát; liệt dây thần kinh quặt ngược do kỹ thuật mổ; chảy máu sau mổ. Ngoài ra, sau mổ, bệnh nhân có thể gặp phải các biến chứng ngoài mong muốn khác như: khàn tiếng, hạ calci máu, nhiễm trùng vết mổ...
Để chống chảy máu, ngăn chặn cơn nhiễm độc giáp kịch phát thì trước khi mổ 2-3 tuần, bệnh nhân cần được phối hợp điều trị các thuốc có iod. Nếu xét nghiệm có giảm chức năng vỏ thượng thận, cần sử dụng prednisolon. Đề phòng cơn nhiễm độc giáp kịch phát có thể xảy ra sau khi mổ, chỉ được tiến hành phẫu thuật khi bệnh nhân đã bình giáp. Bệnh nhân sau mổ cần được theo dõi ngoại trú 2 năm liền, khám định kỳ 3-6 tháng/lần.
Mời độc giả xem thêm video:
Y tế Nga đưa ra cảnh báo virus Sars-Cov-2 có thể tồn tại trong cơ thể hơn 100 ngày | SKĐS