Bệnh bạch hầu là một bệnh truyền nhiễm nguy hiểm có thể lây lan thành dịch và có khả năng gây tử vong. Đã lâu lắm rồi bệnh bạch hầu không xuất hiện thành dịch ở nước ta do tác dụng của tiêm vaccine bạch hầu cho trẻ em trong Chương trình tiêm chủng mở rộng.
Tuy vậy, vài năm gần đây đã có rải rác xuất hiện bệnh bạch hầu ở một số ít địa phương như ở Bình Phước, Đak Nông, Gia Lai, có thể là người mắc bệnh bạch hầu do trước đó chưa từng mắc bạch hầu hoặc chưa tiêm chủng vaccine bạch hầu hoặc tiêm chưa đủ liều.
Vậy cần làm gì để ngăn chặn căn bệnh nguy hiểm này?
1. Sự nguy hiểm của vi khuẩn bạch hầu
Vi khuẩn bạch hầu gây bệnh bởi ngoại độc tố của chúng. Ngoại độc tố của vi khuẩn bạch hầu cực kỳ mạnh, cho nên bệnh bạch hầu là một loại bệnh vừa mang tính chất cấp tính vừa mang tính chất cấp cứu.
Cấp tính là xẩy ra rất nhanh và cấp cứu, bởi vì, nếu không phát hiện và xử trí kịp thời, người bệnh có thể nguy kịch, tử vong do bị viêm cơ tim cấp và suy tim cấp (có những trường hợp mắc bạch hầu, tuy đã hết các triệu chứng lâm sàng nhưng có thể gây viêm cơ tim cấp và suy tim ngay sau đó), nếu bị bạch hầu thanh quản gây nghẹt thở cấp tính làm suy hô hấp cấp tính do màng giả của bệnh bạch hầu che lấp hết đường thở do ngoại độc tố của vi khuẩn bạch hầu gây ra.
2. Đường lây truyền bệnh bạch hầu
Đường lây nhiễm của vi khuẩn bạch hầu rất dễ dàng. Đó là lây theo đường hô hấp do người bệnh, người lành mang vi khuẩn bạch hầu, nói, ho, hắt hơi… và theo giọt bắn vi khuẩn hòa vào không khí, khi người lành hít phải, nếu chưa có miễn dịch chống vi khuẩn bạch hầu, sẽ mắc bệnh, ngay cả người lớn.
Vi khuẩn bạch hầu còn lây lan bởi các dụng cụ, đồ dùng trong sinh hoạt của trẻ hoặc mặt sàn (sàn nhà, tay vịn cầu thang…) nếu có một trẻ mắc bệnh, dùng đồ chơi, dụng cụ sinh hoạt sẽ bị lây nhiễm vi khuẩn bạch hầu, khi trẻ em lành sử dụng các đồ chơi, dụng cụ đó sẽ bị lây nhiễm bệnh.
3. Nhận biết bệnh bạch hầu
Thông thường bệnh bạch hầu có 3 loại (ba thể):
3.1 Hay gặp nhất là bạch hầu họng, mũi
Đây là loại bệnh nhẹ nhất, gọi là bạch hầu thông thường. Ở loại này thời kỳ nung bệnh khoảng vài ba ngày, sau đó có sốt, sổ mũi, viêm họng, nuốt vướng, sau vài ngày sẽ xuất hiện màng trắng ngà (giả mạc) ở vòm hầu, họng, hốc amiđan (nếu bị viêm amiđan mạn tính) có màu xám, dai, dính chặt vào niêm mạc họng, amiđan rất khó bóc tách, nếu cố bóc tách sẽ chảy máu. Giả mạc phát triển rất nhanh ở amiđan, vòm họng.
Người bệnh có biểu hiện nhiễm độc độc tố (da xanh tái, mệt mỏi, mạch nhanh, huyết áp giảm). Nếu được điều trị đúng, bệnh sẽ khỏi, nếu không phát hiện và điều trị ngay, loại này sẽ tiến triển thành thể bạch hầu thanh quản.
3.2 Bạch hầu thanh quản
Do niêm mạc thanh quản bị bao phủ bởi một lớp giả mạc che lấp đường thở gây khó thở cấp, dẫn đến suy hô hấp, có thể tử vong do nghẹt thở (thường ví là chết đuối trên cạn).
3.3 Bạch hầu ác tính (bạch hầu cấp)
Xuất hiện ngay ngày đầu tiên hoặc ngày thứ 2, thứ 3, với các triệu chứng sốt cao (39 – 40 độ C) mệt lả, da xanh tái, nôn, nuốt đau, giả mạc lan nhanh 2 bên amiđan, hơi thở hôi, hạch góc hàm sưng to, đau, làm cổ bạnh ra. Bệnh nhân dần dần bị mệt lả, tím tái, rối loạn nhịp tim, khó thở, khàn tiếng, huyết áp tụt, mạch rất nhanh, nếu không xử trí kịp thời có thể bệnh trở nên nguy kịch đe dọa tính mạng (tử vong).
Được biết cách đây mấy năm (2015) ở Bình Phước, một số trường hợp bị bạch hầu có triệu chứng bệnh diễn tiến rất nhanh, đặc biệt có trường hợp tử vong chỉ sau 3 ngày nhập viện.
4. Biến chứng nguy hiểm của bệnh bạch hầu
Nguy hiểm nhất của bệnh bạch hầu cấp (bạch hầu ác tính) là gây các biến chứng, do độc tố của vi khuẩn bạch hầu cực mạnh cho nên khi bị mắc bệnh rất dễ gây biến chứng nặng, nguy hiểm như làm tổn thương cơ tim gây suy tim cấp.
Biến chứng có thể xảy ra vào thời kỳ bệnh toàn phát, thậm chí xẩy ra muộn hơn sau vài tuần khi bệnh bạch hầu đã khỏi (hết sốt, hết giả mạc…). Có thể bị biến chứng viêm thần kinh gây liệt khẩu cái, liệt chi, cơ hoành hoặc liệt dây thần kinh vận động mắt. Liệt cơ hoành có thể dẫn đến viêm phổi, suy hô hấp kèm theo tắc nghẽn đường thở bởi giả mạc bạch hầu gây ra.
5. Nguyên tắc điều trị bệnh bạch hầu
Khi nghi bị bạch hầu cần đưa trẻ đến cơ sở y tế để khám và chữa trị ngay, bởi vì kháng sinh vẫn còn có tác dụng tốt diệt vi khuẩn (vi khuẩn bạch hầu chưa kháng lại kháng sinh), nếu nặng có thể được tiêm kháng huyết thanh bạch hầu (SAD là kháng thể trung hòa ngoại độc tố bạch hầu) và đo điện tim, siêu âm tim để theo dõi biến chứng suy tim cấp.
Bạch hầu thanh quản nếu cấp cứu kịp thời có thể được mở khí quản để tránh nghẹt thở gây suy hô hấp cấp.
6. Nguyên tắc phòng bệnh
- Phòng bệnh bạch hầu tốt nhất là tiêm chủng vaccine bạch hầu trong chương trình tiêm chủng mở rộng và tiêm chủng cho những người có nguy cơ cao (trong gia đình có người mắc bạch hầu, người chăm sóc người bệnh bạch hầu…). Những người tiếp xúc với trẻ bệnh bạch hầu cũng cần tiêm vaccine và uống thuốc kháng sinh dự phòng theo chỉ định của bác sĩ.
- Khi người có dấu hiệu mắc bệnh hoặc nghi ngờ mắc bệnh bạch hầu phải được cách ly và đưa đến cơ sở y tế để được khám, điều trị kịp thời. Không cho tiếp xúc với người lành và cần đeo khẩu trang cho cả người bệnh và người chăm sóc.
- Ở lớp, trường có trẻ mắc bạch hầu cần vệ sinh sạch sẽ các đồ dùng, dụng cụ mà người bệnh đã sử dụng, nên có chất sát khuẩn mạnh (cloraminB) tẩy uế các dụng cụ, sàn nhà, quần áo chăn, màn… của người bệnh và người tiếp xúc với trẻ bệnh.
- Với người chăm sóc trẻ và người tiếp xúc với trẻ trong lớp đã có trẻ mắc bạch hầu cần rửa tay thường xuyên với xà phòng hoặc chất sát khuẩn tay bằng dung dịch sát khuẩn. Đồng thời nhà trẻ, mẫu giáo, lớp học mầm non cần được thông thoáng, sạch sẽ và có đủ ánh sáng.
- Người dân sống trong vùng có ổ dịch bạch hầu cần chấp hành nghiêm túc việc uống thuốc phòng và tiêm vắc xin phòng bệnh theo chỉ định và yêu cầu của cơ quan y tế địa phương.
Xem video được quan tâm:
Vaccine Pfizer ngừa COVID-19 cho trẻ em dưới 12 tuổi: Những điều cần biết.