Trung tâm Kiểm soát bệnh tật (CDC) tỉnh Bắc Giang vừa phát hiện một trường hợp dương tính với bạch hầu. Đây là một trong hai trường hợp tiếp xúc gần với ca bệnh tử vong do bệnh bạch hầu tại huyện Kỳ Sơn, Nghệ An.
Chiều ngày 8/7, TS Hoàng Minh Đức - Cục trưởng Cục Y tế dự phòng (Bộ Y tế) ký ban hành văn bản gửi Sở Y tế Nghệ An và Sở Y tế Bắc Giang về việc chủ động tăng cường công tác phòng, chống bệnh bạch hầu. Cục Y tế dự phòng đề nghị ngành y tế Bắc Giang, Nghệ An lấy mẫu xét nghiệm xác định kịp thời trường hợp mắc bệnh bạch hầu, triển khai các biện pháp xử lý triệt để ổ dịch, tổ chức điều tra và điều trị kháng sinh dự phòng cho tất cả các trường hợp tiếp xúc gần...
1. Đường lây truyền và triệu chứng của bệnh bạch hầu
Tổ chức Y tế Thế giới cho biết, bệnh bạch hầu là một bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng do các chủng vi khuẩn có tên Corynebacteria diphtheriae gây ra, tạo ra độc tố. Chất độc thường bám vào các mô trong hệ hô hấp và gây bệnh bằng cách giết chết các mô khỏe mạnh.
Các triệu chứng điển hình của nhiễm trùng bao gồm đau họng, sốt, sưng cổ và suy nhược. Trong vòng 2–3 ngày kể từ khi bị nhiễm trùng, mô chết tạo thành một lớp phủ dày, màu xám có thể bao phủ các mô ở mũi, amidan và cổ họng, khiến người bệnh khó thở, khó nuốt. Hiếm gặp hơn, chất độc xâm nhập vào máu và gây tổn thương cho tim, thận và dây thần kinh.
Vi khuẩn bạch hầu lây lan từ người này sang người khác, thường qua các giọt hô hấp, như khi ho hoặc hắt hơi. Mọi người cũng có thể bị bệnh khi chạm vào vết loét hoặc vết loét hở bị nhiễm trùng. Những người có nguy cơ mắc bệnh cao hơn bao gồm những người tiếp xúc trong gia đình, những người tiếp xúc với chất tiết của bệnh nhân và những người thường xuyên tiếp xúc gần gũi với người nhiễm bệnh.
Theo BS. Phan Văn Mạnh, Khoa Cấp cứu, BV Bệnh Nhiệt đới Trung ương, nguồn gây bệnh bạch hầu là các bệnh nhân nhiễm bệnh hoặc người lành mang vi khuẩn nhưng không biểu hiện bệnh. Bệnh chủ yếu lây qua đường hô hấp khi tiếp xúc với giọt bắn của người nhiễm bệnh lúc ho, hắt hơi.
Ngoài ra, bệnh có thể lây qua con đường gián tiếp khi tiếp xúc với đồ vật bị nhiễm dịch mũi hầu từ người bệnh hoặc lây nhiễm khi tiếp xúc với vùng da tổn thương do bạch hầu.
BS. Phan Văn Mạnh cho biết, thể bệnh hay gặp nhất của bệnh bạch hầu là ở đường hô hấp (mũi, họng, thanh quản, khí phế quản), trong đó 70% là bạch hầu họng. Ngoài ra, các vị trí khác có thể nhiễm bệnh như bạch hầu da, bạch hầu mắt…
2. Bệnh bạch hầu qua da có thể lây truyền qua đường tình dục
Năm 2008, nhóm tác giả Khoa Da liễu và STD, Viện Nghiên cứu và Giáo dục Y khoa Sau đại học Jawaharlal (JIPMER), Pondicherry, Ấn Độ đã đăng tải trên Tạp chí Da liễu, Hoa liễu và Bệnh phong Ấn Độ một trường hợp hiếm gặp về bệnh bạch hầu qua vết thương giả dạng một bệnh lây truyền qua đường tình dục (STD). Đó là một nam giới 41 tuổi, đã kết hôn nhưng có quan hệ tình dục bừa bãi, người này đến phòng khám bệnh lây truyền qua đường tình dục (STD) với nhiều vết loét ở bìu và cơ quan sinh dục trong thời gian 20 ngày.
Nuôi cấy vi khuẩn từ mẫu bệnh phẩm lấy từ vết loét sinh dục đã phát triển được các sinh vật đặc trưng về hình thái và sinh hóa của Corynaebacter diphtheriae. Bệnh nhân đã hồi phục và không có biến cố sau hai tuần điều trị bằng huyết thanh trị bệnh bạch hầu và penicillin.
Trường hợp này làm rõ hơn biểu hiện chưa được báo cáo này về bệnh bạch hầu vết thương bắt chước một bệnh loét sinh dục lây truyền qua đường tình dục và các tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của việc coi bệnh bạch hầu là sự khác biệt trong các vết loét sinh dục không điển hình, lâu dài.
Năm 2013, phòng thí nghiệm quốc gia về bệnh bạch hầu, Oberschleissheim và Cơ quan An toàn Thực phẩm và Sức khỏe Bavaria, Oberschleissheim, Đức đã từng báo cáo về trường hợp mắc bệnh bạch hầu lây truyền qua đường tình dục ở một bệnh nhân bị viêm niệu đạo không do lậu cầu sau khi tiếp xúc qua đường sinh dục.
Vào tháng 10 năm 2016, một cậu bé vị thành niên bị vết loét sinh dục cấp tính ở Cologne, Đức. Nhóm nghiên cứu cho rằng đó là một bệnh lây truyền qua đường tình dục nhưng các xét nghiệm chẩn đoán ban đầu cho kết quả âm tính. Bệnh nhân phải nhập viện vì mẫu bệnh phẩm từ vết thương phát triển độc tố Corynebacteria diphtheriae, dẫn đến chẩn đoán bệnh bạch hầu qua da có thể lây truyền qua đường tình dục.
3. Phòng bệnh bạch hầu
Để chủ động phòng chống bệnh bạch hầu, Chương trình Tiêm chủng mở rộng khuyến cáo người dân cần thực hiện tốt các biện pháp sau:
Đưa trẻ đi tiêm chủng, tiêm vaccine phối hợp có thành phần phòng bệnh bạch hầu đầy đủ, đúng lịch bao gồm các mũi tiêm khi trẻ dưới 1 tuổi và tiêm nhắc khi trẻ 18 tháng tuổi. Tại các địa phương nguy cơ cao, trẻ 7 tuổi cần tiêm nhắc mũi thứ 5 với vaccine bạch hầu giảm liều-uốn ván (Td).
Ngoài ra, cần giữ vệ sinh cá nhân (thường xuyên rửa tay bằng xà phòng; che miệng khi ho hoặc hắt hơi; vệ sinh mũi, họng hàng ngày); đảm bảo nhà ở, nhà trẻ, lớp học thông thoáng, sạch sẽ và có đủ ánh sáng. Người dân trong ổ dịch cần chấp hành nghiêm túc việc uống thuốc phòng, tiêm vaccine phòng bệnh theo chỉ định và yêu cầu của cơ quan y tế.
Lịch tiêm chủng vaccine phòng bạch hầu trong Chương trình Tiêm chủng mở rộng:
- Mũi 1: Tiêm vaccine DPT - VGB - Hib (phòng bệnh bạch hầu - ho gà - uốn ván - viêm gan B - viêm phổi/viêm màng não mủ do Hib) khi trẻ 2 tháng tuổi.
- Mũi 2: Tiêm vaccine DPT - VGB - Hib khi trẻ 3 tháng tuổi.
- Mũi 3: Tiêm vaccine DPT - VGB - Hib khi trẻ 4 tháng tuổi.
- Mũi 4: Tiêm vaccine DPT (phòng bệnh bạch hầu - ho gà - uốn ván) khi trẻ 18 tháng tuổi.
Xem thêm video đang được quan tâm:
Tổng hợp các bệnh tình dục nguy hiểm nhất hiện nay.