Bệnh nhi là bé N.B.N 5 tuổi. Đây là một trong những trường hợp mắc đồng thời dị tật teo lép nửa mặt (P) kèm theo dị tật tai nhỏ bẩm sinh. Bệnh nhân đã được khám và tư vấn nhiều nơi nhưng chưa được điều trị...
Lý do đơn giản là với dị tật phức tạp này các bác sỹ khuyên áp dụng kỹ thuật tạo hình tai bằng sụn sườn nên phải mổ ít nhất 2 đến 4 lần và phải chờ khi bé hơn 10, 12 tuổi mới có lồng ngực đủ lớn và đủ sức khoẻ cho ca mổ tạo hình tai.
Tiếp theo đó nếu muốn cân chỉnh khuôn mặt, bệnh nhi sẽ cần đến phẫu thuật cắt chỉnh xương hàm để điều trị bất đối xứng khuôn mặt, đây cũng là một phẫu thuật lớn kèm nhiều nguy cơ biến chứng.
Bé trai trước và sau khi được các y bác sĩ Bệnh viện Việt Đức phẫu thuật tạo hình tai và khuôn mặt - Ảnh: BVCC
Mới đây gia đình đã đưa bệnh nhi đến thăm khám tại chuyên khoa Hàm mặt Tạo hình Thẩm mỹ, Bệnh viện Việt Đức để được thực hiện kỹ thuật tạo hình tai nhỏ bằng sụn nhân tạo Medpor và sau đó được ghép mỡ tự thân giàu tế bào gốc để bù thể tích mặt teo lép.
Sau khi thăm khám, các bác sĩ tư vấn thực hiện kỹ thuật tạo hình tai nhỏ bằng sụn nhân tạo Medpor và sau đó được ghép mỡ tự thân giàu tế bào gốc để bù thể tích mặt teo lép.
Theo PGS.TS Nguyễn Hồng Hà - Trưởng Khoa phẫu thuật hàm mặt tạo hình thẩm mỹ, Bệnh viện Việt Đức, kỹ thuật ghép mỡ tự thân có thể tiến hành sau phẫu thuật tạo hình tai hoặc kết hợp cùng lúc với ít nguy cơ và biến chứng hơn nhiều so với phẫu thuật cắt chỉnh phần xương mặt.
Đồng thời, nhờ ứng dụng kỹ thuật hiện đại vi phẫu và nội soi thẩm mỹ trong tạo hình tai 1 thì và bơm mỡ tự thân giàu tế bào gốc.
Sau ca phẫu thuật, bệnh nhi N. đã có tai mới và khuôn mặt cân đối, giúp bé tự tin hơn khi chuẩn bị vào lớp 1.
PGS.TS Nguyễn Hồng Hà cho biết thêm với các tổn thương bệnh lý teo lép nửa mặt hiện nay có nhiều phương pháp điều trị với nhiều ưu - nhược điểm khác nhau.
Phương pháp chuyển vạt cân mỡ vi phẫu có thể mang đến khối lượng mỡ nhiều ngay lập tức. Tuy nhiên phần mỡ này thường phân bố không đều, ca mổ vi phẫu thường kéo dài nhiều tiếng đồng hồ với nhiều nguy cơ biến chứng.
Kỹ thuật ghép mỡ tự thân có thể tiến hành sau phẫu thuật tạo hình tai hoặc kết hợp cùng lúc với ít nguy cơ và biến chứng hơn nhiều so với phẫu thuật cắt chỉnh phần xương mặt. Và như vậy nhờ ứng dụng kỹ thuật hiện đại vi phẫu và nội soi thẩm mỹ trong tạo hình tai 1 thì và bơm mỡ tự thân giàu tế bào gốc bé N.B.N đã có tai mới và khuôn mặt cân đối để cùng các bạn chuẩn bị vào lớp 1 khi năm học mới đến.
Các phương pháp kéo giãn xương hàm mặt đáp ứng được nhu cầu gia tăng kích thước phần xương mà ít thay đổi được phần mềm da mỡ che phủ.
Ngoài ra phương pháp này cần thời gian kéo dài nhiều lần phẫu thuật can thiệp xương nên cũng nhiều nguy cơ và biến chứng tiềm ẩn. Với phương pháp bơm mỡ tự thân kinh điển, có thể đem đến chất liệu mềm mại đồng đều cho từng vùng khuyết lõm hoặc bất đối xứng trên khuôn mặt.
Nhược điểm của kỹ thuật bơm mỡ kinh điển là lượng mỡ bơm vào thường bị tiêu ngót sau đó, có lúc teo mất 60 - 80% thể tích được bơm vào, dẫn đến người bệnh thường phải thực hiện 3 - 4 lần bơm mỡ mà nhiều khi không đạt được hiệu quả mong muốn.
"Vì vậy trong những năm gần đây chúng tôi đã nghiên cứu cải tiến và áp dụng kỹ thuật bơm mỡ giàu tế bào gốc trong điều trị teo lép nửa mặt hoặc bất đối xứng khuôn mặt, nâng cao tỉ lệ thành công, giảm số lần phẫu thuật cho người bệnh.
Thêm vào đó, mỡ tự thân còn là chất liệu sinh học nên tương thích hoàn toàn và do đó rất ít nguy cơ thải loại hoặc nguy cơ biến chứng hơn nhiều so với các chất làm đầy filler là những sản phẩm nguồn gốc nhân tạo hiện có trên thị trường" - PGS.TS Nguyễn Hồng Hà cho hay.
Bác sĩ Hà cho biết thêm, việc thực hiện kỹ thuật này cần tiến hành một cách tỉ mỉ chính xác và nhẹ nhàng nhất để có tỉ lệ thành công cao nhất và nguy cơ biến chứng thấp nhất có thể.
Trước mổ chuyên gia tạo hình thẩm mỹ phối hợp với các bác sỹ chuyên khoa chẩn đoán hình ảnh tiến hành chụp chiếu bằng các phương pháp chẩn đoán hình ảnh hiện đại nhất như chụp cắt lớp vi tính 3D đa dãy, chụp cộng hưởng từ 3.0 Tesla thế hệ mới, để xác định chính xác khuyết hổng phần xương hay phần mềm, thể tích chính xác từng vùng mỡ thiếu hụt tầng trên, giữa tầng dưới mặt để ước tính thể tích mỡ cần bù.
Ngoài ra còn tiến hành siêu âm màu, tìm hiểu cấu trúc mạch máu, các bất thường giải phẫu để giảm thiểu nguy cơ biến chứng khi bơm mỡ...