Cụ thể, trẻ 32 ngày tuổi, nhập viện với chẩn đoán viêm phổi RSV (+), suy hô hấp. Tiền sử bé là trẻ sinh non 36 tuần có cân nặng lúc sinh 2300gr. Ban đầu trẻ được hỗ trợ thở oxy, nhưng chỉ sau nửa ngày, tình trạng nhanh chóng xấu đi, buộc phải cho trẻ phải thở máy không xâm nhập (NCPAP).
Đến cuối ngày thứ 3, bé suy hô hấp nặng, phải đặt ống nội khí quản và thở máy xâm nhập. Tuy nhiên phổi giãn nở kém, tổn thương lan tỏa, khí máu ghi nhận pH 7,1 và pCO₂ 115 mmHg, cho thấy toan hô hấp nặng.

Sản phụ và bé sơ sinh được chăm sóc và điều trị tại BVĐK Đức Giang. Ảnh: BVCC.
Dù đã tối ưu các thông số thở máy thường, tình trạng vẫn không cải thiện, các bác sĩ quyết định chuyển sang thở máy tần số cao (High Frequency Oscillation – HFO). Đây là kỹ thuật hồi sức hô hấp hiện đại chỉ định cho các ca suy hô hấp nặng không đáp ứng với thở máy thông thường.
Sau 1,5 ngày thở HFO, phổi trẻ cải thiện rõ rệt, CO₂ giảm dần, khí máu ổn định. Bé được chuyển về thở máy thường theo chiến lược ARDS, cai máy thành công sau 7 ngày và ra viện khỏe mạnh sau hơn 15 ngày điều trị tích cực.
Theo Tổ chức y tế Thế giới (WHO), mỗi năm RSV gây hơn 3,6 triệu ca nhập viện và 100.000 ca tử vong ở trẻ dưới 5 tuổi, trong đó gần 50% số ca tử vong nằm ở trẻ sơ sinh dưới 6 tháng tuổi.
Trung bình cứ 100 trẻ dưới 6 tháng thì có 2-3 trẻ phải nhập viện vì RSV. Trẻ sinh non hoặc nhẹ cân càng có nguy cơ mắc cao hơn. Ngoài ra, RSV còn để lại hệ lụy lâu dài cho sức khỏe hô hấp của trẻ như khò khè tái phát, hen suyễn và suy giảm chức năng phổi trong 10 năm đầu đời.
RSV có thể tái nhiễm nhiều lần do miễn dịch tự nhiên suy giảm trong khi chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, người bệnh chủ yếu được chăm sóc hỗ trợ, nâng cao thể trạng. Ngay cả sau hồi phục, người bệnh RSV vẫn có nguy cơ đối diện với các di chứng lâu dài.
Vì vậy, các chuyên gia thống nhất rằng các biện pháp phòng ngừa là vô cùng quan trọng, bao gồm rửa tay thường xuyên, che miệng khi ho/hắt hơi, vệ sinh bề mặt các vật dụng và triển khai giải pháp dự phòng chủ động cho nhóm nguy cơ.