Tràn dịch màng phổi thanh tơ là tràn dịch màng phổi xuất tiết, dịch rỉ viêm, màu vàng chanh, có nhiều fibrin, phản ứng Rivalta dương tính, protein trên 30g/lít. Tràn dịch là hậu quả của các bệnh lao, ung thư, nhiễm khuẩn, tim mạch và gan, thận.
Màng phổi của người khỏe mạnh như thế nào?
Màng phổi được cấu tạo bởi lá thành màng phổi và lá tạng màng phổi, giữa 2 lá màng phổi là khoang ảo màng phổi. Màng phổi thành phủ lên bề mặt trong của lồng ngực, mặt trên vòm hoành và trung thất, có những sợi thần kinh cảm giác, nên khi màng phổi bị viêm sẽ gây cảm giác đau. Màng phổi tạng bọc chung quanh 2 lá phổi và từng thùy phổi, không có sợi thần kinh cảm giác nên không gây ra cảm giác đau khi bị kích thích. Khoang màng phổi là một khoang ảo, áp lực âm tính, nhỏ hơn áp lực khí quyển từ -3 đến -5cm H2O. Bình thường trong khoang màng phổi có một lớp dịch mỏng làm cho phổi và thành ngực giãn nở dễ dàng trong khi thở. Chức năng của màng phổi là tạo ra hình dáng bình thường của phổi và làm cho phổi hoạt động mất ít cơ năng nhất nhờ áp lực âm tính và lớp dịch mỏng trong khoang màng phổi. Dịch màng phổi được tiết ra từ lá thành và được hấp thu bởi lá tạng. Vì vậy mọi nguyên nhân gây tăng xuất tiết và cản trở hấp thu dịch trong khoang màng phổi sẽ gây tràn dịch màng phổi.
Vì sao lại bị tràn dịch màng phổi?
Tràn dịch màng phổi do nhiều nguyên nhân, ở nước ta các nguyên nhân hay gặp là các bệnh: lao, ung thư, nhiễm khuẩn, bệnh tim mạch...; nguyên nhân ít gặp là phù niêm, hội chứng móng tay vàng, xơ gan, luput ban đỏ, viêm cầu thận mạn, hội chứng thận hư, thận ứ nước, tăng urê huyết, sau thẩm phân phúc mạc, bệnh bụi phổi, do nấm và ký sinh trùng khác; bên cạnh đó tràn dịch màng phổi không rõ nguyên nhân chiếm tỷ lệ 10% -20%.
Các hình thái của tràn dịch màng phổi
Tràn dịch do lao: khởi phát cấp tính có sốt về chiều, ra mồ hôi trộm, chán ăn, mất ngủ, sút cân. Phản ứng Mantoux dương tính. Tìm thấy vi khuẩn lao trong đờm. Xét nghiệm máu: số lượng bạch cầu lympho tăng, tốc độ lắng máu tăng cao. Xquang thấy hình ảnh tràn dịch màng phổi kèm theo tổn thương lao phổi như lao nốt, lao thâm nhiễm... Điều trị dùng các thuốc kháng lao. Hút tháo dịch sớm và dùng corticoid trong 6 tuần đầu. Tập thở sớm khi hết dịch màng phổi, để chống dày dính màng phổi.
Vị trí của màng phổi. |
Tràn dịch do ung thư: thường gặp ở người trên 50 tuổi, có các dấu hiệu ho khan hoặc ho ra máu, khó thở, sốt hoặc không. Toàn thân suy sụp, hạch thượng đòn, ngón tay dùi trống, hội chứng trung thất với 4 triệu chứng chèn ép: khí phế quản, các mạch máu, chèn ép thực quản và dây thần kinh. Tuy nhiên ít khi có đủ 4 loại triệu chứng cùng một lúc ở bệnh nhân. Phản ứng Mantoux âm tính, tốc độ lắng máu tăng cao. Xquang thấy tràn dịch màng phổi mức độ nhiều, hoặc có thể thấy đi kèm với hình ảnh tràn dịch màng phổi là khối u tròn, hạch trung thất, xẹp phổi. Chụp cắt lớp vi tính giúp chẩn đoán sớm ung thư phổi. Dịch màng phổi thường là dịch máu, huyết thanh máu hoặc là dịch thanh tơ sau chuyển dần thành dịch huyết thanh máu, với đặc điểm là tái tạo nhanh, tồn tại lâu. Về điều trị: Chọc tháo dịch màng phổi kết hợp gây dính màng phổi sau khi hút tháo dịch hoặc sau soi màng phổi gây dính.
Tràn dịch do vi khuẩn: bệnh khởi phát cấp tính, có hội chứng nhiễm khuẩn như sốt, bạch cầu tăng, tốc độ máu lắng tăng. Xquang thấy hình ảnh tràn dịch màng phổi, hình ảnh tổn thương nhu mô phổi như viêm phổi, áp-xe phổi. Dịch màng phổi là dịch thanh tơ, sau có thể chuyển thành dịch mủ: bạch cầu tăng, cấy vi khuẩn trong dịch màng phổi có thể dương tính. Điều trị hút tháo dịch kết hợp điều trị kháng sinh toàn thân có kết quả tốt.
Tràn dịch do virut: Khởi phát cấp tính có hội chứng viêm long đường hô hấp như ho khan, sổ mũi, đau rát họng, nhức đầu, mệt mỏi. Xquang thấy hình ảnh tràn dịch màng phổi và hình ảnh viêm phổi mô kẽ với bóng mờ xa rời rốn phổi ở thùy dưới của phổi. Xét nghiệm máu thấy bạch cầu giảm, tốc độ máu lắng tăng, phản ứng Mantoux âm tính. Dịch màng phổi màu vàng chanh, cũng có khi dịch huyết thanh máu. Xét nghiệm bổ thể và phân lập virut dương tính. Điều trị chủ yếu là nâng cao thể trạng cho bệnh nhân bằng nghỉ ngơi, dinh dưỡng tốt, dùng vitamin các loại và thuốc hạ nhiệt giảm đau, chống sổ mũi, giảm ho.
Tràn dịch do bệnh tim mạch, gan, thận: trên cơ sở bệnh nhân có bệnh sử tim mạch hoặc bệnh lý gan thận, khởi đầu từ từ, không sốt. Tràn dịch màng phổi bên phải hoặc hai bên, lượng dịch vừa phải. Nếu tràn dịch màng phổi rãnh liên thùy bé tạo hình ảnh u "ma", hoặc tràn dịch màng phổi mức độ ít. Protein dưới 30g/lít, phản ứng Rivalta âm tính. Khi điều trị bệnh tim hay gan thận ổn định, thì tràn dịch màng phổi cũng hết.
BS. Đinh Lan Anh