Bệnh Still là gì? Tại các khoa Cơ xương khớp, đôi khi gặp bệnh nhân mắc bệnh Still (bệnh Still trẻ em và bệnh Still người lớn) tiến triển đến khám và điều trị. Bệnh Still trẻ em được George Still đề cập vào năm 1897 trên các bệnh nhi và mang tên ông. Ở trẻ em, bệnh Still là một thể của bệnh viêm khớp mạn tính thiếu niên, thuộc thể hệ thống, các viêm khớp xảy ra dưới 16 tuổi và các khớp viêm tiến triển ít nhất 3 tháng. Ở người lớn, bệnh Still được chẩn đoán theo tiêu chuẩn của Yamaguchi. Khi chẩn đoán bệnh Still người lớn phải loại trừ các bệnh nhiễm khuẩn, các bệnh máu, bệnh tự miễn và ung thư.
Bệnh Still trẻ em? Bệnh gặp 20% trường hợp của viêm khớp mạn tính thiếu niên. Bé gái hay gặp hơn bé trai, tuổi hay gặp 2 và 7 tuổi. Biểu hiện ở ngoài khớp, nghĩa là có các biểu hiện ở ngoài da và nội tạng nên còn gọi là thể hệ thống. Các biểu hiện trên da có ban đỏ rất thường gặp và có tính chất đặc hiệu, đó là những nốt màu hồng nổi trên mặt da, không đau, không ngứa, xuất hiện nhiều vào lúc sốt cao trong ngày rồi mất dần sau vài giờ, ban đỏ thường xuất hiện ở thân mình, các chi, nhất là lòng bàn tay. Hạt dưới da, nổi ở quanh các khớp, hạt cứng và không đau.
Một số trường hợp có viêm màng phổi, viêm màng bụng. Bệnh có các dấu hiệu toàn thân khác, bệnh nhi thường sốt cao kéo dài trên 2 tuần, sốt chu kỳ, kèm có ban đỏ nhưng không ngứa. Viêm nhiều hạch bạch huyết, gan và lách to, viêm màng tim khi làm siêu âm thấy rõ dấu hiệu này. Các triệu chứng tổn thương khớp: sưng đau các khớp nhỏ, khớp cổ tay, khớp cổ chân, khớp gối, khớp khuỷu, ít thấy khớp ngón tay và háng, không có biểu hiện cột sống.
Bệnh Still người lớn? Ngày nay, bệnh Still được công nhận có thể khởi phát ở người lớn, bệnh được chẩn đoán theo nhiều tiêu chuẩn. Theo Yamaguchi (năm 1992) bao gồm tiêu chuẩn chính như sốt cao trên 39 độ C kéo dài trên 1 tuần; Đau khớp trên 2 tuần; Ban đỏ ở da điển hình; Tăng số lượng tế bào bạch cầu và các tiêu chuẩn phụ như đau họng, có hạch to hoặc lách to, ferritin huyết thanh tăng cao và không có các yếu tố dạng thấp-FR, kháng thể kháng nhân-ANA.
Tần suất các dấu hiệu lâm sàng thường gặp: sốt cao 95%, đau khớp 87%, ban đỏ ở da gặp 83%, đau họng 66%, đau cơ 63%, hạch to 62%, tăng ferritin huyết thanh 67%, bệnh gan 66%.
Giả Still ở người lớn? Chẩn đoán bệnh Still theo tiêu chuẩn của Yamaguchi, tuy nhiên, một số trường hợp bệnh Still đã được mô tả ở những bệnh nhân có biểu hiện của bướu tân sinh. Những trường hợp này được gọi là giả hội chứng Still hoặc Still cận ung thư. Ở Senegal, các bác sĩ chuyên khoa khớp đã mô tả 5 trường hợp nam giới có biểu hiện giả Still ở bệnh nhân tổn thương ung thư tuyến tiền liệt. Các bệnh nhân đều có viêm các khớp, sốt rét run, tăng bạch cầu trên 10.000/mm3 và trên 80% bạch cầu đa nhân trung tính, có hội chứng viêm rất mạnh như tốc độ máu lắng tăng rất cao, CRP tăng rất cao. Tăng ferritin máu trên 2.000 micro-g/l. Tại cùng thời điểm đó, những bệnh nhân này đã được các bác sĩ chuyên khoa thận chẩn đoán ung thư tuyến tiền liệt. Các xét nghiệm máu của bệnh nhân này tăng cao marker ung thư tiền liệt-PSA và sinh thiết tuyến tiền liệt đều chỉ ra rằng ung thư biểu mô tuyến (adenocarcinome). Các bệnh nhân nam giới này tuổi trung bình khoảng 75 tuổi, tuổi thấp nhất 60 và cao nhất 85 tuổi, cùng thời điểm các biểu hiện giả Still có biểu hiện ung thư tuyến tiền liệt.
Bệnh Still hiếm gặp và ở người lớn khi có biểu hiện các triệu chứng nghi ngờ của bệnh Still luôn luôn tìm kiếm các dấu hiệu cận ung thư kèm theo và trong trường hợp đó gọi là giả Still ở bệnh nhân mắc bệnh ung thư.
TS.BS. Mai Thị Minh Tâm (Khoa Y Dược - Đại học Quốc gia Hà Nội)