Nguyên nhân chủ yếu do: nội thương tình chí, can khí uất kết dẫn đến can đởm hỏa thịnh mà phát tiết ra bì phu, tấu lý; do công năng vận hóa thủy thấp của tỳ bị suy giảm, thấp nhiệt ứ trệ tại bì phu sinh bệnh; hoặc do cảm nhiễm độc tà phối hợp với thấp nhiệt; hỏa nhiệt độc tích tụ tại phần huyết, huyết nhiệt vong hành sinh ra ban đỏ, thấp nhiệt tích tụ thành bào chẩn (có phỏng nước), gây bế tắc kinh mạch, khí huyết không thông gây đau.
Người bệnh có cảm giác nhức dai dẳng, đau rát, một vùng da nổi ban đỏ, nổi cụm mụn nước to,... thường khu trú ở những vị trí đặc biệt và chỉ ở một bên của cơ thể dọc theo các đường dây thần kinh, cá biệt có thể bị cả hai bên hay lan tỏa. Sau đây là một số bài thuốc trị theo các thể.
Xích thược là vị thuốc trong bài Huyết phủ trục ứ thang gia giảm trị zona thể khí trệ huyết ứ.
Thể can kinh uất nhiệt: Xuất hiện những đám đỏ hơi cao hơn mặt da, hình bầu dục, rải rác trên dọc đường dây thần kinh; trên đám đỏ nổi lên những mụn nước, mặt bóng căng. Người bệnh đau như lửa đốt, miệng khát, họng khô, bứt rứt nóng nảy, ăn không ngon, táo bón, tiểu tiện vàng sẫm; chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng; mạch huyền sác. Phép trị là thanh nhiệt lợi thấp, giải độc chỉ thống. Dùng bài thuốc: long đởm thảo 12g, hoàng cầm 16g, chi tử 8g, trạch tả 12g, xa tiền 16g, mộc thông 12g, đương quy 12g, sinh địa 12g, sài hồ 16g, cam thảo 4g. Sắc uống ngày 1 thang, chia 3 lần.
Gia giảm: Nếu bệnh phát ở đầu, mặt gia cúc hoa 10g; ở vai và tay gia khương hoạt, khương hoàng; thấp nhiệt độc thịnh gia kim ngân, bồ công anh, thạch cao; táo bón gia đại hoàng; đau nhức nhiều gia huyền hồ, xuyên luyện tử; người già hoặc cơ thể suy yếu gia đảng sâm, hoàng kỳ.
Thể tỳ hư thấp trệ: Những mụn nước ban đầu trong, dần dần thành đục, loét chảy nước. Người bệnh cảm giác đau nhẹ hơn; miệng không khát hoặc khát mà không thích uống nước, chán ăn, bụng đầy, đại tiện lỏng; chất lưỡi bệu, rêu lưỡi trắng dày hoặc nhớt; mạch hoạt. Phép trị là kiện tỳ trừ thấp giải độc. Dùng bài thuốc Trừ thấp vị linh thang gia giảm: hậu phác 12g, thương truật 16g, trần bì 10g, trư linh 12g, trạch tả 12g, xích linh 12g, bạch truật 12g, hoạt thạch 12g, chi tử 12g, phòng phong 10g, mộc thông 12g, nhục quế 8g, đăng tâm 8g, cam thảo 6g, kim ngân hoa 12g, bồ công anh 10g, huyền hồ 10g. Sắc uống ngày 1 thang chia 3 lần.
Thể khí trệ huyết ứ: Các phồng mủ xẹp, khô, đóng vảy màu nâu sẫm, nền đỏ cũng nhạt dần, bớt cộm, phỏng nước vỡ có thể thành điểm loét tròn sâu; người bệnh đau liên tục, môi thâm, đầu móng tay móng chân xanh, chân tay lạnh, tinh thần mệt mỏi, da đã lành mà vẫn còn đau; lưỡi có điểm ứ huyết hoặc tím; mạch hư nhược. Phép trị là hoạt huyết hóa ứ, hành khí chỉ thống, giải độc. Dùng bài thuốc Huyết phủ trục ứ gia giảm thang: đương quy 12g, sinh địa 16g, đào nhân 12g, hồng hoa 10g, chỉ xác 10g, xích thược 10g, sài hồ 12g, cam thảo 6g, cát cánh 10g, xuyên khung 12g, ngưu tất 12g. Sắc uống ngày 1 thang chia 3 lần.
Gia giảm: Đau nhiều gia huyền hồ 8g, nhũ hương 6g, một dược 6g, đan sâm 10g; táo bón gia đại hoàng 8g; người già và cơ thể hư suy gia hoàng kỳ 16g, đảng sâm 16g; bệnh phát ở đầu gia ngưu bàng tử 10g, cúc hoa 10g, thảo quyết minh 10g; bệnh phát ở ngực sườn gia qua lâu 10g.
Thuốc dùng ngoài:
Bệnh mới phát: Dùng lá và ngọn cành cam thảo đất giã nhỏ đắp lên tổn thương; ngày thay 2 - 3 lần. Đắp 5 - 7 ngày.
Lúc đã vỡ: Bôi bột cam xanh, bột thanh đại hoặc thanh đại cao.
Lưu ý: Khi mới mắc cần chú ý tránh phỏng nước bị vỡ. Giữ vệ sinh da, uống nước đun sôi để nguội. Kiêng ăn các chất cay nóng. Điều trị triệu chứng kịp thời.