Trong y học cổ truyền, bệnh viêm phần phụ gọi là đới hạ. Biểu hiện khí hư tiết ra nhớt kéo dài như sợi tơ không dứt có khi rất hôi (viêm âm đạo, viêm loét cổ tử cung, viêm cổ tử cung, viêm xoang chậu...). Tuỳ theo màu sắc bạch đới ( sắc trắng), xích đới (vẩn đục lờ lờ máu cá) mà chia ra thể bệnh.
Nguyên nhân gây bệnh thường do thấp nhiệt; đàm thấp; do chức năng của các tạng tỳ, thận suy yếu và can khí uất kết (do căng thẳng). Sau đây là một số bài thuốc trị theo từng thể.
Do thấp nhiệt hạ tiêu (thường có nhiễm khuẩn nặng). Người bệnh hơi sợ lạnh, có khi sốt, đau vùng hạ vị, cự án, khí hư ra vàng như mủ hôi, chất lưỡi đỏ rêu vàng, mạch sác. Phép trị là thanh nhiệt trừ thấp, hoạt huyết hóa ứ. Dùng bài Nhị diệu thang gia giảm: hoàng bá 12g, thương truật 12g. Sắc uống. Gia giảm: sà sàng tử 12g, bồ công anh 12g, hoàng liên 10g, xa tiền tử 12g, liên kiều 12 g, thổ phục linh 16g, tỳ giải 16g, uất kim 6g, tam lăng 6g, long đởm thảo 8g, mộc thông 12g.
Bán hạ (củ chóc).
Do tỳ hư: người bệnh có biểu hiện khí hư sắc trắng, ít hôi, bụng không trướng, không đau, sắc mặt trắng mệt mỏi, tay chân lạnh, đại tiện lỏng, nước tiểu trong, mạch hoãn nhược... Phép trị là kiện tỳ ích khí thăng dương trừ thấp. Dùng bài Hoàn đới thang: bạch truật 20g; xa tiền 12g, hoài sơn 16g, thương truật 12g, đẳng sâm 16g, bạch thược 12g, sài hồ 12g, trần bì 8g, bạch giới tử sao 8g, cam thảo 4g. Sắc uống. Gia giảm: thổ phục linh 20g, xà sàng tử 16g, hoàng bá 12g, khổ sâm 12g, mẫu lệ chế 16g, ô tặc cốt 16g.
Do đàm thấp: thường gặp ở người béo. Người bệnh có biểu hiện khí hư ra nhiều giống như đờm, đầu nặng, choáng váng, miệng nhạt, bụng trướng đầy, ăn kém, hay lợm giọng, chất lưỡi nhợt, rêu trắng nhớt, mach huyền hoạt. Phép trị là tập trung kiện tỳ mạnh. Dùng bài Lục quân tử thang gia giảm: bạch truật 12g, đảng sâm 12g, phục linh 12g, cam thảo 4g, trần bì 8g, bán hạ chế 12g, kiếm thực 12g, kim anh 8g. Gia giảm: mẫu lệ 16g, ô tặc cốt 16g, mạch nha 12g, biển đậu 12g, thần khúc 8g, mộc hương 6g, sa nhân 6g. Sắc uống.
Do can uất: Người bệnh có biểu hiện khí hư màu hồng nhạt hoặc trắng dính, ra không ngừng, tinh thần uất ức hay nóng giận, bực bội, ngực sườn đầy trướng, miệng đắng, tiểu vàng, mạch huyền. Phép trị là điều can giải uất và thanh nhiệt. Dùng bài Long đởm tả can thang: long đởm thảo 12g, mộc thông 12g, chi tử 8g, trạch tả 8g, hoàng cầm 8g, xa tiền 12g, sinh địa 12g, đương qui 12g, cam thảo 4g, sài hồ 8g. Sắc uống. Gia giảm: miết giáp 12g, kim tiền thảo 12g, uất kim 8g.
Do thận hư: Người bệnh có biểu hiện khí hư trắng trong như lòng trắng trứng, ra kéo dài không dứt, sắc mặt xám, mệt mỏi.
Nếu do thận dương hư: lưng bụng, chân tay lạnh; tiểu trong, đại tiện lỏng, có khi phù chân. Phép trị là ôn bổ thận dương. Dùng bài thuốc Bát vị quế phụ: hoài sơn 12g, trạch tả 12g, đan bì 8g, bạch linh 8g, sơn thù 12g, thục địa 12g, phụ tử chế 8g, nhục quế 4g. Có thể gia: tang phiêu tiêu 8g, thỏ ty tử 12g, khiếm thực 12g. Sắc uống.
Nếu do thận âm hư: khí hư nhiều, màu đỏ nâu, người gầy, da khô, nóng, chóng mặt hoa mắt, tiểu vàng tiện táo, sắc mặt ửng hồng, mạch tế sác. Phép trị là bổ thận âm. Dùng bài Lục vị tri bá gia giảm: hoài sơn 12g, trạch tả 12g, đan bì 8g, bạch linh 8g, sơn thù 12g, thục địa 12g, tri mẫu 10g, hoàng bá 12g. Gia giảm: kim anh 12g, khiếm thực 12g, a giao 12g. Sắc uống.