Bài thuốc trị viêm cầu thận mạn

SKĐS - Bệnh viêm cầu thận mạn là một bệnh có tổn thương cầu thận, tiến triển từ từ, kéo dài nhiều năm, có nguy cơ biến chứng suy thận, ảnh hưởng rất lớn đến sức lao động và cuộc sống của người bệnh.

Viêm cầu thận mạn thuộc phạm vi chứng thủy thũng (thể âm thủy) của y học cổ truyền.

Nguyên nhân là do phong hàn tà thấp gây chứng phù thũng cấp tính (dương thủy) lâu ngày vì mệt nhọc, cảm nhiễm, ăn uống không điều độ, bệnh không khỏi hay tái phát làm giảm sút công năng vận hóa thủy thấp của tỳ và công nặng khí hóa thủy thấp của thận, gây ứ đọng nước thành chứng phù thũng mạn tính (âm thủy). Sau đây là một số bài thuốc trị.

Mã tiền thảo (cỏ roi ngựa) là vị thuốc trị viêm cầu thận mạn thể thận tỳ dương hư.

Mã tiền thảo (cỏ roi ngựa) là vị thuốc trị viêm cầu thận mạn thể thận tỳ dương hư.

Thể tỳ dương hư: Người bệnh phù ít, không rõ ràng, phù ở mi mắt, sắc mặt trắng xanh, tay chân mệt mỏi, ăn kém, hay đầy bụng, phân nát, tiểu tiện ít, chất lưỡi bệu, có vết răng, chân tay lạnh, mạch hoãn. Phép chữa là ôn bổ tỳ dương, lợi niệu. Dùng một trong các bài:

Bài 1: phụ tử chế 8g, can khương 4g, bạch truật 12g, cam thảo 4g, hậu phác 8g, mộc hương 8g, thảo quả 8g, đại phúc bì 8g, mộc qua 8g, phục linh 16g. Sắc uống.

Bài 2: quế chi 6g, thương truật 12g, hậu phác 6g, xuyên tiêu 4g, phục linh bì 12g, trạch tả 12g, ý dĩ 16g, sa tiền 20g. Sắc uống.

Bài 3: ý dĩ 30g, củ mài 20g, bạch biển đậu 20g, mã đề 20g, nhục quế 4g, gừng khô 8g, đại hồi 8g, đăng tâm 4g, đậu đỏ 20g. Sắc uống.

Kế hợp châm cứu các huyệt tỳ du, túc tam lý, tam tiêu du.

Thể thận tỳ dương hư: Người bệnh phù không rõ ràng, phù ít, kéo dài (nhất là ở hai mắt cá chân), bụng trướng, nước tiểu ít, sắc mặt trắng xanh, lưỡi bệu, mệt mỏi, sợ lạnh, lưng mỏi lạnh, chân tay lạnh, mạch trầm tế. Phép chữa là ôn thận tỳ dương. Dùng một trong các bài:

Bài 1: thổ phục linh 16g, củ mài 16g, tỳ giải 16g, đại hồi 10g, nhục quế 8g, tiểu hồi 12g, mã đề 12g, đậu đỏ 20g, cỏ xước 20g, đậu đen 20g, gừng khô 6g. Sắc uống.

Bài 2: bồ hóng bếp 400g, ích mẫu 300g, mã tiền thảo 500g, nhục quế 200g, bạch phàn 200g, đại hồi 200g, thảo quả 200g, bích ngọc đơn (gồm diêm tiêu, lưu huỳnh). Ích mẫu và mã tiền thảo nấu cao, các vị khác tán bột làm viên bằng hạt tiêu, ngày dùng 40g.

Bài 3: bạch truật 12g, bạch thược 12g, bạch linh 12g, phụ tử chế 8g, sinh khương 6g, trạch tả 12g, sa tiền 12g, trư linh 8g, nhục quế 4g. Sắc uống ngày 1 thang.

Kết hợp châm cứu các huyệt quan nguyên, khí hải, tỳ du, túc tam lý, tam âm giao.

Viêm cầu thận mạn thuộc phạm vi chứng thủy thũng (thể âm thủy) của y học cổ truyền. Bệnh có nguy cơ biến chứng suy thận, ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe.

Viêm cầu thận mạn thuộc phạm vi chứng thủy thũng (thể âm thủy) của y học cổ truyền. Bệnh có nguy cơ biến chứng suy thận, ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe.

Thể âm hư dương xung: Hay gặp ở người viêm cầu thận mạn có tăng huyết áp. Người bệnh phù không nhiều hoặc đã hết phù, nhức đầu chóng mặt, hồi hộp đánh trống ngực, miệng khát, môi đỏ, họng khô, chất lưỡi đỏ, mạch huyền sác. Phép chữa là bình can tư âm lợi thủy. Dùng bài: câu đằng 16g, tang ký sinh 16g, cúc hoa 12g, sa sâm 12g, ngưu tất 12g, đan sâm 12g, quy bản 12g, trạch tả 12g, xa tiền tử 16g. Sắc uống.

Kết hợp châm cứu các huyệt tam âm giao, thái xung, can du, nội quan, thần môn và các huyệt tại chỗ theo chứng.

Thể viêm cầu thận mạn có urê máu cao: Do công năng của tỳ dương và thận dương giảm sút quá nhiều nên trọc âm nghịch lên, gây chứng urê huyết cao gọi là dương hư âm nghịch. Người bệnh lợm giọng, buồn nôn, sắc mặt đen, đau tức ngực, bụng trướng, đại tiện lỏng, tiểu tiện ngắn, ít, chất lưỡi bệu, rêu trắng dày, mạch huyền tế, nhu tế. Phép chữa là ôn dương giáng nghich. Dùng bài: phụ tử chế 12 - 16g, đại hoàng 12-16g, trần bì 8g, phục linh 12g, bạch truật 12g, hậu phác 6g, bán hạ chế 12g, sinh khương 8g, đẳng sâm 20g. Sắc uống.

Nếu đại tiện phân nát, nước tiểu trong, đau bụng, rêu lưỡi trắng trơn (trọc khí hóa hàn) thêm can khương 8g, ngô thù 8g.

Nếu nước tiểu ít, đại tiện táo, miệng hôi lở loét (trọc khí hóa nhiệt) thêm hoàng liên 12g, trúc nhự 12g, chỉ thực 12g, can khương 4g, đẳng sâm 16g, cam thảo 4g, đại táo 12g.

Nếu có hiện tượng trụy mạch, dùng bài Sinh mạch tán (nhân sâm 8g, ngũ vị tử 8g, mạch môn 8g) kết hợp các vị thuốc hồi dương như phụ tử chế 12g, nhục quế 6g, can khương 6g. Sắc uống.

Vị trí huyệt:

- Tỳ du: dưới gai sống lưng 11, đo ngang ra 1,5 tấc.

- Túc tam lý: úp lòng bàn tay vào giữa đầu gối, đầu ngón tay giữa chạm vào xương ống chân, từ đó hơi xịch ra phía ngoài khoảng bằng 1 ngón tay trỏ là huyệt.

- Tam tiêu du: dưới gai sống thắt lưng 1, đo ngang ra 1,5 tấc.

- Quan nguyên: dưới rốn 3 tấc, trên đường giữa bụng. Xác định huyệt khi nằm ngửa.

- Khí hải: dưới rốn 1,5 tấc, trên đường giữa bụng. Xác định huyệt khi nằm ngửa.

- Tam âm giao: nằm trên mắt cá chân trong 3 tấc, men sau bắp cẳng chân trong.

- Thái xung: sau khe giữa ngón chân 1 và 2, đo lên 1,5 tấc, huyệt ở chỗ lõm tạo nên bởi 2 đầu xương ngón chân 1 và 2.

- Can du: dưới gai sống lưng 9, đo ngang ra 1,5 tấc.

- Nội quan: chính giữa lằn chỉ cổ tay đo lên 2 tấc.

- Thần môn: phía xương trụ, nằm trên lằn chỉ cổ tay, nơi chỗ lõm sát bờ ngoài gân cơ trụ trước và góc ngoài bờ trên xương trụ.


BS. Thanh Ngọc
Ý kiến của bạn