Bệnh hay gặp trong mùa mưa, diễn biến phức tạp và rất nguy hiểm; do sau xuất huyết sẽ có xu thế gây ra hội chứng sốc, có liên quan với hạ tiểu cầu và cô đặc máu...
SXH chưa có vắc-xin dự phòng nên YHHĐ điều trị bằng: bù lại sớm khối lượng tuần hoàn, nước, chất điện giải, albumin và máu khi cần thiết, thực hiện sớm trước khi có sốc hình thành. SXH được chia làm 4 độ.
Cỏ nhọ nồi là vị thuốc trị SXH giai đoạn nhiệt độc xâm phạm phần khí, dinh và huyết (thể khí dinh lưỡng phiền - SXH độ 2)
Theo y học cổ truyền, SXH thuộc ôn dịch thời độc, thấp nhiệt dịch. Nhiệt độc tấn công vào phần ngoài cơ thể (phần vệ, phần khí) gây sốt cao; sau đó xâm nhập phần sâu hơn (phần dinh, phần huyết) gây xuất hiện ban chẩn và xuất huyết. Y học cổ truyền điều trị tốt bệnh SXH độ 1 và 2. Sau đây là một số bài thuốc:
Giai đoạn nhiệt độc xâm phạm phần vệ, phần khí (SXH độ 1): Người bệnh sốt cao, lúc đầu hơi sợ lạnh, sốt liên tục, nhức đầu, đau người, lưỡi đỏ thẫm, rêu lưỡi trắng hoặc vàng mỏng, mạch sác. Sau đó có xuất hiện triệu chứng: sốt rất cao, mặt đỏ, mắt đỏ, chân tay tê bì, ngực bụng đầy tức, nôn hoặc buồn nôn, đại tiện táo kết hay lỏng nát, tiểu tiện đỏ sẻn... Phép chữa: thanh giải nhiệt độc. Dùng bài thuốc:
Bài 1: cam thảo 4-8g, hoạt thạch 24-48g. Cho thuốc vào túi vải sợi bông, hãm nước sôi 20-30 phút. Chia uống 3-4 lần trong ngày. Tác dụng giải nhiệt tà.
Bài 2: kim ngân hoa 10g, liên kiều 10g, sơn tra 10g, cúc hoa 10g, đường phèn 20-30g. Thái nhỏ dược liệu, hãm với nước sôi 20-30 phút, gạn lấy nước, hòa đường cho tan, uống thay nước trong ngày. Tác dụng sơ phong thanh nhiệt giải độc.
Bài 3: thạch cao 40g, lá tre tươi 30g, trúc nhự 30g, lô căn 30g, gạo tẻ 100g, đường phèn vừa đủ. Thạch cao sắc trước 15 phút rồi cho các thuốc khác vào, sắc lấy nước bỏ bã, cho gạo vào nấu cháo, thêm đường, ăn trong ngày. Tác dụng thanh nhiệt giải độc.
Giai đoạn nhiệt độc xâm phạm phần khí, dinh và huyết (thể khí dinh lưỡng phiền - SXH độ 2): Người bệnh sốt cao, đau mình, đau đầu, nhức khung mắt, mặt đỏ, lưng, chân tay có điểm xuất huyết, chảy máu cam, miệng khát, có khi nôn mửa, hạch ở nách, khủy tay và bẹn, mạch phù sác hay hồng đại. Phép chữa: thanh nhiệt giải độc, tả hỏa cầm máu. Dùng bài thuốc:
Bài 1: lá tre 20g, hạ khô thảo 20g, rễ cỏ tranh 16g, cỏ nhọ nồi 16g, trắc bách diệp 16g. Sắc uống trong ngày.
Bài 2: kim ngân hoa 20g, liên kiều 12g, hoàng cầm 12g, rễ cỏ tranh 20g, cỏ nhọ nồi 16g, hoa hòe 16g, chi tử 8g. Nếu khát nước thêm huyền sâm 12g, sinh địa 12g; sốt cao thêm tri mẫu 12g. Sắc uống trong ngày.
Bài 3: huyền sâm 20g, sừng trâu 12g, sinh địa 24g, trúc diệp 12g, đan sâm 16g, mạch đông 12g, kim ngân hoa 16g, liên kiều 16g, hoàng liên 4g. Sắc uống trong ngày. Tác dụng tư âm giáng hỏa. Trị bệnh nhiệt làm tổn thương âm, tim hồi hộp, miệng khát.
Đang sốt đột ngột nhiệt độ hạ thấp, huyết áp tụt, mạch nhanh, người mệt mỏi, vật vã, vã mồ hôi, chất lưỡi đỏ, mạch trầm tế sác (SXH độ 3, 4): Nhất thiết phải dùng biện pháp Tây y để bù lại sớm khối lượng tuần hoàn, nước, chất điện giải, albumin và máu. Đông y hỗ trợ bằng các bài thuốc bổ khí, sinh tân dịch.
Bài 1 (nếu huyết áp hạ ít): bạch truật 20g, đảng sâm 20g, mạch môn 12g, thục địa 12g. Sắc uống.
Bài 2 (nếu huyết áp hạ nhiều): nhân sâm 8g, ngũ vị tử 8g, mẫu lệ nung 20g, phụ tử chế 12g, mạch môn 8g, long cốt 20g, thục địa 10g. Sắc uống.
Giai đoạn phục hồi: Người bệnh hết sốt, ban xuất huyết mờ dần, cơ thể mệt mỏi, chán ăn, hoa mắt chóng mặt, lưng gối đau mỏi, ngủ kém, đại tiện lỏng nát... Tùy theo triệu chứng cụ thể: nhiệt thương âm dịch, tỳ vị hư nhược, thận khí hư suy mà dùng các bài:
Bài 1 - Thang ích vị: sa sâm 16g, sinh địa 20g, ngọc trúc 12g, mạch đông 12g. Sắc uống. Trị bệnh nhiệt về cuối kỳ còn sốt lai rai, họng khô, miệng khát.
Bài 2: bạch truật 12g, chỉ thực 6g. Sắc uống hoặc tán bột làm viên hoàn. Mỗi lần uống 8g, ngày uống 2 - 3 lần, chiêu với nước cơm. Dùng khi công năng của tỳ, vị đều hư nhược, tiêu hoá kém, không muốn ăn uống.
Bài 3: xương dê khoảng 500g, gạo tẻ 100g. Xương dê rửa sạch, nấu cháo với gạo tẻ; cháo chín thêm muối, gừng tươi, hành, gia vị. Ăn nóng khi đói. Dùng tốt cho người xuất huyết dưới da do giảm tiểu cầu, thiếu máu do thiểu dưỡng.