Chứng tâm can huyết hư thường do nguồn sinh hóa bất túc, huyết trong mạch máu hao tổn, tâm can mất tác dụng tàng chứa, các khiếu lưu thông không được nuôi dưỡng, làm tinh thần không yên, hoặc do ốm đau lâu ngày, hoặc do già yếu mệt nhọc, hoặc do chứng xuất huyết kéo dài. Chứng tâm can huyết hư thường xuất hiện các bệnh như: mất ngủ, hồi hộp, chóng mặt...
Toan táo nhân (nhân hạt táo ta sao) là vị thuốc trong bài Toan táo nhân thang trị chứng tâm can huyết hư.
Đông y cho rằng, tâm chủ huyết, can tàng huyết cho nên những chứng bệnh thuộc về âm huyết đều ảnh hưởng đến công năng của tâm và can. Trong Đông y, tâm thuộc hỏa, can thuộc mộc, khi tâm huyết không đủ khiến cho can mất chỗ chứa hoặc hóa nguyên không nuôi dưỡng được tâm, đó là nguyên lý sinh ra chứng này. Sau đây là một số bài thuốc điều trị tùy theo thể bệnh:
Do tâm can huyết hư, hư hỏa bốc lên quấy rối ở trong, làm tâm phiền không ngủ được sinh chứng mất ngủ. Can huyết bất túc thì hồn không yên, đêm ngủ thấy chiêm bao sợ hãi.
Triệu chứng: Trong người hay bứt rứt, ngủ kém, khi vừa thiếp đi thì thấy chiêm bao sợ hãi, đầu choáng váng, tim hồi hộp.
Bài thuốc: Toan táo nhân thang: táo nhân 20g, xuyên khung 8g, cam thảo 6g, tri mẫu 12g, phục linh 12g. Tùy chứng trạng của bệnh nhân có thể gia giảm cho thích hợp. Ngày một thang sắc uống 3 lần trong ngày, uống trước khi ăn hoặc lúc đói.
Do tâm, can huyết hao tổn, làm tâm can huyết hư, sinh chứng tim hồi hộp.
Triệu chứng: Tim hồi hộp khi xúc động hoặc có việc bất cập, vì can và đởm bị tổn thương nên dễ kinh sợ, đầu choáng váng, hoa mắt. Mạch là phủ của huyết, khi huyết kém thì mạch không dồi dào, huyết đi không lưu lợi nên mạch tế mà sác, có khi mạch kết đại.
Bài thuốc: Thiên vương bổ tâm đan phối hợp với bài Tứ vật thang gia giảm: nhân sâm 80g, thục địa 120g, huyền sâm 60g, đan sâm 80g, thiên môn 60g, mạch môn 60g, bá tử nhân 60g, thạch xương bồ 60g, đỗ trọng 80g, đại táo 20g, đương quy 80g, ngũ vị tử 40g, phục linh 80g, phục thần 60g, cát cánh 60g, táo nhân 80g, viễn chí 80g, bách bộ 60g, cam thảo 40g, đăng tâm 40g, xuyên khung 60g, bạch thược 80g, kim bạ vừa đủ. Tán bột làm viên hoàn mật ong, mỗi viên 5g, ngày uống 3 lần, mỗi lần uống 1 viên với nước đun sôi để ấm. Nếu dùng thuốc sắc thì giảm trọng lượng của thuốc xuống 10 lần (nếu 80g chỉ dùng 8g...). Ngày uống một thang, sắc uống 3 lần trong ngày, uống trước khi ăn hoặc lúc đói.
Do mệt nhọc, ốm đau lâu ngày, phòng thất quá độ làm tâm can huyết hư. Gọi là chứng hư lao.
Triệu chứng: Huyết hư toàn thân rõ rệt, đầu choáng váng, mất ngủ, tai ù, hoa mắt, hồi hộp, hay sợ hãi, ăn kém, bụng trướng đầy, đoản hơi, mệt mỏi, mặt xanh nhợt, móng tay móng chân, mạch máu và lưỡi có hiện tượng ứ huyết. Nếu là phụ nữ thì mắc chứng bế kinh hoặc lượng kinh ra ít.
Bài thuốc: Quy tỳ thang phối hợp với Tứ vật thang: nhân sâm 12g, viễn chí 6g, bạch truật 12g, hoàng kỳ 12g, mộc hương 4g, sinh khương 3 lát, phục linh 12g, đương quy 12g, long nhãn 12g, táo nhân (sao) 16g, cam thảo 6g, đại táo 3 quả, xuyên khung 8g, bạch thược 8g. Cách dùng: Ngày uống một thang, sắc uống 3 lần trong ngày, uống sau khi ăn.
Do tâm can huyết hư, huyết không làm tươi tốt não tủy sinh chứng huyễn vựng (chóng mặt).
Triệu chứng: Bệnh nhân chóng mặt từng cơn, đầu choáng váng, khi mệt nhọc bệnh tăng lên, có các kiêm chứng khác. Điều trị: Bổ huyết, bình can, giáng hỏa.
Bài thuốc: Đương quy bổ huyết phối hợp Bạch vi thang: đương quy 16g, bạch vi 12g, chích thảo 4g, hoàng kỳ 12g, nhân sâm 12g. Ngày uống một thang, sắc uống 3 lần trong ngày, uống trước khi ăn.
Do ốm đau lâu ngày, hoặc sau khi sinh mất nhiều huyết, làm tâm can huyết hư, không nuôi dưỡng được gân mạch mà sinh co giật.
Triệu chứng: Bệnh nhân tay chân co giật, hoặc mềm yếu có kiêm chứng hoa mắt chóng mặt, hồi hộp, sắc mặt úa vàng hoặc trắng nhợt, rêu lưỡi ít, mạch tế vô lực.
Bài thuốc: Bổ can thang đương quy 12g, bạch thược 12g, táo nhân 12g, mộc qua 12g, xuyên khung 8g, thục địa 16g, mạch môn 12g, cam thảo 4g. Nếu bệnh nặng thì dùng bài Đại đinh phong châu: bạch thược 24g, sinh địa 24g, mạch môn 24g, quy bản 16g, kê tử hoàng 2 quả (lòng đỏ trứng gà), a giao 12g, ma nhân 8g, ngũ vị tử 8g, miết giáp 16g. Sắc ngày 1 thang chia 3 lần/ngày, có thể tán bột làm viên hoàn mật.
BS. Nguyễn Xuân Hướng