Bài thơ chữ Nôm, toàn văn như sau:
Đứng thốc trên sông một đọi đèo
Vặn hình ra thể dáng con Mèo
Đá xương đất thịt, da không mốc
Cỏ vện hoa vằn, dạ chẳng meo
Cáo thỏ kinh hơi, rừng vắng ngắt
Kình nghê tăm bặt, nước trong veo
Xanh trì vũ trụ chân ngoèo vững
Ắt hẳn ngàn năm kín chẳng nghèo
Tôi thuộc lòng bài thơ này từ năm 1962, năm tôi bắt đầu về dạy văn Trường Yên Thọ, sát xã Yên Đức, sau đó thì về dạy văn tại xã Yên Đức đến 3 năm liền. Trường cách núi Mèo khoảng hơn 1km và nói chung, tháng nào cũng có một đôi lần, tôi dẫn bạn ra núi Mèo chơi. Núi Mèo ở phía nửa sông bên này. Từ bờ đê sang núi khi nước triều cạn kiệt, có thể lội qua được. Nơi khắc bài thơ ở phía bên kia quả núi, có cái vòm đá rất đẹp, bên dòng nước rất sâu, xuôi về sông Bạch Đằng, thuyền bè đi lại rất dễ dàng trong bóng dựng đứng (“đứng thốc”) của núi đá lúc nào cũng xanh sẫm in xuống dòng nước, của rặng núi đá Phi Liệt thuộc huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng ở bên kia bờ sông. Cùng với quần thể di tích về sự phồn thực của đời sống nông thôn mà tôi thấy không nơi nào có, như núi Đống Thóc, núi Con Chuột; núi Mèo có cảnh quan sông nước hữu tình hiếm có của xã Yên Đức, huyện Đông Triều.
Núi Mèo nằm trong Cụm di tích lịch sử và thắng cảnh Yên Đức (xã Yên Đức, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh).
Bài thơ có diềm “lưỡng long chầu nguyệt”, long là con rồng thời Nguyễn (có chân), không phải con rồng thời Trần, trông đơn giản như con giun đất. Hiện ở vách núi Bài Thơ, trung tâm TP. Hạ Long có bài thơ của vua Lê Thánh Tông cho khắc vào vách núi tháng 3/1468, không có diềm long ly, chỉ có chữ và đề bút danh quen thuộc của nhà vua là Thiên Nam động chủ, đó mới là thơ thật của vua. Ở đây, tên tác giả đề là “Trần triều Nhân TÔN hoàng đế”. Trần triều là viết sau thời Trần, khi triều Trần đã sụp đổ và được thay bằng một triều khác, để phân biệt với triều khác, còn viết ở thời Trần phải viết là Hoàng triều hay Bản triều. Nhân Tông là miếu hiệu của nhà vua, nhà vua có tên này do quần thần dâng lên sau khi đã băng hà được khoảng 1 năm. Còn chữ TÔN là chữ TÔNG viết chệch đi hoặc bớt nét để kiêng húy vua Thiệu Trị nhà Nguyễn, Nguyễn Phúc Miên Tông, lên ngôi vua và ban quốc húy là Tông, năm 1841. Như vậy, bài thơ được viết ở thời Nguyễn, của một viên quan thời Nguyễn, viết sau năm 1841. Điều ấy ai có hiểu biết đều nhận ra ngay. Ngay chữ tôn giáo ta quen dùng hiện nay, cũng là tông giáo, do kiêng húy vua Thiệu Trị mà viết chệch đi, lâu rồi thành quen không sửa lại nữa.
Về cấu trúc và ngôn ngữ nghệ thuật, thơ Nôm Đường luật thời Trần còn sơ khai, câu chữ và niêm luật đều không ổn định. Các bài hiện cũng đã thất lạc. Qua các thiên tài là Nguyễn Trãi (mất năm 1442) và Lê Thánh Tông (mất năm 1497), sau Trần Nhân Tông khoảng 200 năm, thơ luật chữ Nôm của nước ta còn chưa hoàn chỉnh, câu chữ còn thật thà, nôm na, lại lẫn nhiều chữ cổ, thường xen câu thơ 6 chữ vào câu thơ 7 chữ, đôi khi cắt nhịp 3/4 (ngắt ý ở chữ thứ 3) hoặc cắt nhịp 2 - 2 - 2, chứ không phải 4/3 như hiện nay. Ví dụ, thơ Nguyễn Trãi:
Nhiều của ấy, - chẳng qua chữ nghĩa
Dưỡng người cho, - kẻo nhọc chân tay
Trời đã - có kho - vô tận
Đành để nhi tôn khỏi bợ vay
Sau Nguyễn Trãi hơn nửa thế kỷ, thơ Lê Thánh Tông:
Lòng vì thiên hạ những lo âu
Thay việc trời, - dám trễ đâu
Trống canh ba - còn đọc sách
Chiêng xế bóng - chửa thôi chầu...
Còn bài thơ được gọi là của vua Trần Nhân Tông, trước đó hơn 200 năm, câu chữ rất hiện đại: Đứng thốc trên sông - một đọi đèo. Nếu ai đã đứng trước bài thơ này, sẽ thấy chữ Đứng thốc rất hiện đại, được dùng rất đúng và rất tài. Nhịp cắt 4/3, niêm luật nghiêm chỉnh đến dễ sợ:
Đá xương đất thịt - da không mốc
Cỏ vện hoa vằn - dạ chẳng meo
Cáo thỏ kinh hơi - rừng vắng ngắt
Kình nghê tăm bặt - nước trong veo
Xanh trì vũ trụ - chân ngoèo vững...
Căn cứ vào âm hưởng, cấu trúc, niêm luật, chữ nghĩa, tôi đã khảo sát những bài thơ tương tự, khắc vào núi đá từ Kinh Môn ra đến Hồng Gai, đều có những nét tương đồng như thế, có thời gian khắc vào núi là từ năm 1920 đến năm 1930, mà năm 1926 là nhiều bài hơn, mà đưa ra thời gian sáng tác bài thơ Vịnh núi Mèo bị gán cho vua Trần Nhân Tông, là thơ của một vị quan thời Nguyễn, viết và cho khắc vào núi đá trong khoảng thời gian từ năm 1920-1926 hoặc 1930.
Nhân đây, xin thưa thêm, có người nói rằng, làng Đức Sơn, xã Yên Đức có vườn Thượng uyển của vua Trần Nhân Tông cũng không phải. Nếu là Thượng uyển hay Ngự uyển (vườn của vua) thì chỉ có 2 chữ, đằng này rõ ràng 3 chữ là Thiên long uyển mà chữ thiên được viết là nghìn (1.000) chứ không phải là trời (chỉ nhà vua). Chúng ta đều biết, thời đánh Nguyên, vua Trần không ở vùng này, cũng không qua vùng này, vì đây là đất giặc Nguyên kiểm soát. Hơn nữa trong đạo quân Nguyên có tướng Phạm Nhan, là người bản huyện, rất thông thạo vùng này và đóng quân ở vùng này, tàn sát nhân dân rất dã man. Đại Việt sử ký toàn thư cho biết: Trong trận Bạch Đằng năm 1288, vua Trần Nhân Tông và Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Vương dẫn quân từ Thái Bình qua Kiến An, rồi vào trận ở chỗ bây giờ là khu vực núi Tràng Kênh, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng, không ở phía thượng nguồn bên này sông (xã Yên Đức).
Loại trừ sự lấn cấn về tác giả, bởi cứ gán cho vua Trần Nhân Tông, thì đây quả thực là một bài thơ hay, nghệ thuật rất điêu luyện và có tầm lớn. Hai cặp thực và luận tài nghệ vô cùng:
Đá xương đất thịt, da không mốc
Cỏ vện hoa vằn, dạ chẳng meo...
Đá đất mới là núi, vằn vện mới là màu lông của con mèo:
Cáo thỏ kinh hơi, rừng vắng ngắt
Kình nghê tăm bặt nước trong veo...
Ý thơ đã vượt ra ngoài con mèo, bởi con mèo thì làm sao làm cho trong các khu rừng, bầy cáo thỏ ẩn nấp ở đó phải kinh sợ; và xa hơn, ngoài biển Đông, lũ kình nghê, tức là con cá voi và con cá sấu, loài cá hung dữ, phải lặn mất tăm (chạy đi nơi khác). Đến đây thì ta hiểu cáo thỏ là bọn phản nghịch trong nước, kình nghê là giặc ngoại xâm. Con mèo, chỉ là khắc tinh của lũ chuột, đã được khái quát hóa thành sức mạnh của cả dân tộc trong việc làm khiếp sợ thù trong giặc ngoài. Tôi chợt nhớ đến hai câu thơ rất xuất sắc của Trần Phu, sứ giả nhà Nguyên sang Đại Việt sau trận Bạch Đằng:
Trông ánh gươm sắt mà kinh hồn
Nghe tiếng trống đồng mà bạc tóc...
Hai câu kết cũng hay, cái chân của con mèo choãi ra (nghĩa của chữ ngoèo) để giữ cho (nghĩa của chữ trì) giang sơn này bền vững mãi, và trong hòa bình dựng xây, ắt hẳn sẽ thoát khỏi nghèo nàn. Bài thơ có tầm lớn, khơi dậy niềm tin vào tương lai tươi sáng và phồn thịnh của đất nước.
Giá trị tư tưởng và nghệ thuật của bài thơ khá cao. Chỉ có điều đáng tiếc là tác giả của bài thơ không phải là vua Trần Nhân Tông, nên trong các tài liệu lưu trữ ở Viện Hán Nôm, hoặc các tập sách đã xuất bản của vua Trần, kể cả trong hệ thống sách Phật, từ trước đến nay, đều không có bài thơ này. Được biết chính quyền và nhân dân địa phương có ý định tạo dựng nơi này thành một điểm tham quan du lịch văn hóa - lịch sử về vua Trần Nhân Tông, vì thế, tôi nghĩ là rất cần phải thận trọng.
(*) Vịnh núi Mèo, bài thơ khắc vào vách núi đá xã Yên Đức, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh.