Bài 10:Phát hiện sớm bệnh gù lưng ở trẻ em

19-11-2009 08:05 | Bệnh thường gặp
google news

Đây là một thể thoát vị đĩa đệm đặc biệt thường xảy ra ở trẻ em. Bệnh tiến triển rất từ từ, không gây đau đớn “cấp tính” ở cột sống nên thường bị bỏ qua.

Đây là một thể thoát vị đĩa đệm đặc biệt thường xảy ra ở trẻ em. Bệnh tiến triển rất từ từ, không gây đau đớn “cấp tính” ở cột sống nên thường bị bỏ qua.

Vì sao trẻ lại bị gù lưng?

 Giải phẫu cột sống bình thường.
Bệnh gù lưng ở trẻ em là bệnh loạn sản sụn của đốt sống và đĩa đệm ở vùng cột sống ngực. Bệnh có gây ảnh hưởng đến cột sống thắt lưng và cần phân biệt với những bệnh lý khác của cột sống thắt lưng. Tổn thương bệnh lý thể hiện đốt sống vẹt ở phần trước, nhân nhầy thoát vị chui vào thân đốt sống ở phía dưới đĩa đệm, mặt trên và dưới của thân đốt sống cong lên chứ không lõm xuống, đĩa đệm hẹp, sụn đĩa đệm lồi lõm không đều. Những tổn thương trên thường xuất hiện ở vùng lưng, từ đốt sống ngực thứ 7 đến thứ 11. Bệnh thường gặp ở nam giới, đa số bệnh nhân bắt đầu ở lứa tuổi 13 - 17.

Trẻ bị loạn sản sụn có thể nhận biết dễ dàng không?

Gù lưng là biểu hiện điển hình của bệnh, cột sống lưng gù cong đều, không có đỉnh gù nhọn. Do gù ở cột sống nên cột sống cổ và thắt lưng uốn cong ra trước (ngược lại cột sống lưng) để bù trừ. Giảm sự giãn nở của lồng ngực khi thở, gây giảm dung tích sống của phổi.

Đau ở cột sống lưng, mức độ thường nhẹ, đau có thể lan lên vùng cột sống cổ và xuống cột sống thắt lưng, về chiều đau nhiều hơn buổi sáng. Cũng có những người bị bệnh này nhưng không đau đớn gì. Không có triệu chứng chèn ép tủy hoặc rễ thần kinh. Trên phim Xquang nếu thấy hình ảnh bệnh lý như mô tả ở trên có thể chẩn đoán xác định bệnh. Cần chú ý phân biệt với viêm cột sống dính khớp, lao cột sống, thoái hoá cột sống.

Cách điều trị bệnh là gì?

Bệnh nhân nên cố gắng đi lại, sinh hoạt bình thường. Khi đau nhiều thì dùng thuốc giảm đau, đeo đai đỡ cột sống, điều trị lý trị liệu.

Trong độ tuổi thiếu niên: nên hạn chế tăng độ gù lưng, bệnh nhân cần phải nằm trên giường cứng, không gối đầu; tránh các gắng sức thể lực và thể thao, riêng môn bơi có thể thực hiện ở mức có giới hạn; phải nằm nghỉ vào buổi trưa ở tư thế nằm ngửa; dùng kết hợp một số thuốc giảm đau thông thường nếu đau lưng nặng lên. Liệu trình này không được áp dụng kéo dài quá 6 đến 9 tháng. Tiếp sau cho tiến hành các biện pháp nắn chỉnh cột sống do các thầy thuốc chuyên khoa chỉnh hình hướng dẫn.

Trong độ tuổi trưởng thành: thường xuất hiện chứng đau lưng khi các tổn thương, hư khớp thứ phát phát triển, nhất là ở những người bệnh có trạng thái tâm lý lo âu, rối loạn thần kinh chức năng. Cần cho chụp Xquang cột sống để làm cơ sở cho việc chỉ định các biện pháp điều trị thích hợp. Bệnh nhân phải nằm nghỉ tại giường, tiến hành các biện pháp: xoa bóp, thể dục liệu pháp. Có thể kết hợp dùng các thuốc giảm đau thông thường aspirin, alaxan... Đôi khi phải cho thêm các thuốc trấn tĩnh thần kinh.

Phòng bệnh cho trẻ bằng cách nào?

 Biểu hiện gù lưng ở trẻ em.
Để phòng bệnh gù lưng cho trẻ, các bậc cha mẹ cần chú ý ngay từ những bước đi chập chững của trẻ. Cần lựa chọn thời điểm thích hợp dạy trẻ tập đi và thực hiện được theo đúng khả năng của mình, tránh nóng vội, muốn trẻ ngồi, đi, đứng quá sớm khiến cột sống non nớt của trẻ phải gánh đỡ sức nặng của đầu và thân mình, dễ khiến trẻ mắc các bệnh cột sống về sau. Khi trẻ đã biết đi, cần dạy trẻ đi một cách tự nhiên, giữ đầu thẳng, hai vai cân đối, ngực hơi ưỡn ra phía trước. Đây là giai đoạn đầu tiên cũng là một trong những bước quan trọng nhất tránh cho trẻ bị gù hay cong vẹo cột sống sau này. Khi trẻ bước vào tuổi đến trường, cần tạo cho trẻ thói quen ngồi học đúng tư thế. Trẻ em tuổi mẫu giáo nếu phải ngồi học hay xem vô tuyến lâu, cột sống rất dễ bị gù, vẹo do hệ cơ bắp chưa đủ sức đỡ được trọng lượng cơ thể trong thời gian dài. Đối với trẻ lớn hơn, cấp tiểu học hay trung học cơ sở, trẻ thường hay ngồi bò ra bàn, ép ngực vào thành bàn, nghiêng vẹo cổ để viết nên dễ bị biến dạng cột sống. Nhiều học sinh bị cong vẹo cột sống hay gù, vai bị lệch, vai cao vai thấp do cột sống bị xoay. Do đó, trẻ cần được tạo những điều kiện sinh hoạt, vui chơi, hoạt động thoải mái để trẻ có thể thay đổi tư thế cột sống thường xuyên, kết hợp các hoạt động thể lực và nghỉ ngơi một cách hài hòa, hợp lý. Mỗi học sinh cũng cần được sắp xếp một vị trí ngồi trong lớp hợp lý để có thể nhìn rõ bảng mà không phải ưỡn hay dướn, ngó nghiêng người dễ dẫn đến bị cong vẹo cột sống.

Ở gia đình, cha mẹ cũng cần luôn quan sát, nhắc nhở trẻ đi đứng, ngồi học đúng tư thế. Nếu trẻ có những dấu hiệu khác thường thì kịp thời chấn chỉnh, tránh để thành tật do tư thế không đúng.

PGS. Vũ Quang Bích


Ý kiến của bạn